Tìm hiểu một số mô hình chuyển đổi số hoạt động thông tin thư viện đại học

Tóm tắt: Trong bối cảnh phát triển của công nghệ số, trường đại học liên tục khai thác công nghệ kỹ thuật số để vừa tạo ra các nguồn giá trị mới cho cộng đồng đại học và tăng sự nhanh nhẹn trong hoạt động. Thư viện đại học có chuyên môn và tư duy sớm áp dụng công nghệ mới để thực hiện các hoạt động như giám tuyển kỹ thuật số, bảo quản kỹ thuật số, lưu trữ số; đồng thời tham gia tích cực hơn vào hoạt động dạy học, nghiên cứu của nhà trường với việc cung cấp các không gian, dịch vụ, trải nghiệm tiện ích hướng đến người sử dụng trên nền tảng ứng dụng công nghệ số. Vì vậy việc tìm hiểu, phân tích và lựa chọn để phát triển một mô hình hoạt động thông tin thư viện đại học nói riêng, thư viện Việt Nam nói chung là xu hướng tất yếu và cần thiết để thư viện thực sự đồng hành cùng công cuộc chuyển đổi số của trường đại học và quốc gia.

pdf12 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 63 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu một số mô hình chuyển đổi số hoạt động thông tin thư viện đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÌM HIỂU MỘT SỐ MÔ HÌNH CHUYỂN ĐỔI SỐ HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN THƯ VIỆN ĐẠI HỌC Phan Thị Hà Thanh1* Tóm tắt: Trong bối cảnh phát triển của công nghệ số, trường đại học liên tục khai thác công nghệ kỹ thuật số để vừa tạo ra các nguồn giá trị mới cho cộng đồng đại học và tăng sự nhanh nhẹn trong hoạt động. Thư viện đại học có chuyên môn và tư duy sớm áp dụng công nghệ mới để thực hiện các hoạt động như giám tuyển kỹ thuật số, bảo quản kỹ thuật số, lưu trữ số; đồng thời tham gia tích cực hơn vào hoạt động dạy học, nghiên cứu của nhà trường với việc cung cấp các không gian, dịch vụ, trải nghiệm tiện ích hướng đến người sử dụng trên nền tảng ứng dụng công nghệ số. Vì vậy việc tìm hiểu, phân tích và lựa chọn để phát triển một mô hình hoạt động thông tin thư viện đại học nói riêng, thư viện Việt Nam nói chung là xu hướng tất yếu và cần thiết để thư viện thực sự đồng hành cùng công cuộc chuyển đổi số của trường đại học và quốc gia. Từ khóa: Thư viện đại học; Chuyển đổi số; Học thuật số; Hoạt động thông tin. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Cuộc cách mạng kỹ thuật số đang ngày càng phát triển và tạo ra một loạt các sản phẩm và dịch vụ thông tin tri thức trong các tổ chức, cơ quan khác nhau tùy thuộc vào mức độ hiện đại của hệ thống công nghệ thông tin truyền thông. Đặc biệt, sự phát triển của hệ thống kỹ thuật số đã cung cấp các giải pháp công nghệ cho các tổ chức học thuật ∗ Thạc sĩ, Trung tâm Học liệu và Truyền thông, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng. 790 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM và các tổ chức quản lý thông tin để tiếp cận giáo dục và tri thức trong môi trường ảo. Các cơ sở giáo dục đại học trên toàn cầu đã phát triển nền tảng công nghệ số để thực hiện và đạt được các mục tiêu của giá trị xã hội và học thuật. Sự phát triển này đã ảnh hưởng đến vai trò và hoạt động của các thư viện đại học trong việc tạo ra, quản lý, truyền bá và sử dụng thông tin và kiến thức. Ở Việt Nam, công nghệ thông tin truyền thông đã, đang và sẽ tiếp tục được quan tâm ứng dụng mạnh mẽ vào hoạt động thông tin của các thư viện. Nhiều mô hình thư viện hiện đại, thư viện thông minh, thư viện số... đã được đầu tư, phát triển; song dường như chỉ mới tập trung nhiều vào việc chuyển đổi các kho tài liệu truyền thống của thư viện sang số hóa để tổ chức và phục vụ tài liệu số cho người dùng tin thay vì các sản phẩm và dịch vụ thông tin được phát triển thực sự trên nền tảng kỹ thuật số. Trong môi trường kỹ thuật số hiện đại, kho dữ liệu số của thư viện không chỉ dừng lại ở việc thỏa mãn yêu cầu chứa toàn bộ dữ liệu thư viện có mà còn có thể đảm bảo cho việc kết nối, liên thông và cung cấp truy cập tới các kho dữ liệu của các thư viện, cơ quan thông tin khác trong phạm vi quốc gia và mở rộng ra toàn cầu. Trong khi các cơ sở giáo dục đại học được đặt trước thử thách phải cung cấp các phương tiện, công cụ thông tin và công nghệ cần thiết để hỗ trợ thực hành nghiên cứu, giảng dạy và học tập thì hoạt động thông tin trong các thư viện đại học trở thành cốt lõi và trọng tâm của các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, học tập và học thuật. Nghiên cứu, tìm hiểu mô hình chuyển đổi số phù hợp cho hoạt động thông tin thư viện đại học là cần thiết để đảm bảo cho việc vừa triển khai hiệu quả hoạt động của thư viện vừa tham gia vào các hoạt động học thuật và chuyển đổi số của trường đại học. 2. CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ THƯ VIỆN ĐẠI HỌC Sự phổ biến của môi trường kỹ thuật số và Internet vạn vật (IoTs) đang tác động đến tất cả các khía cạnh của thực tiễn hoạt động dạy học và giáo dục; vì trách nhiệm trung tâm và vai trò quan trọng của chúng trong việc hỗ trợ nghiên cứu, học tập, các hoạt động thông tin và tri thức trong các trường đại học và các thư viện. Phát triển e-learning là khía cạnh tương đối mới của hệ thống giáo dục và học thuật trong việc 791 TÌM HIỂU MỘT SỐ MÔ HÌNH CHUYỂN ĐỔI SỐHOẠT ĐỘNG THÔNG TIN THƯ VIỆN ĐẠI HỌC thực hiện chương trình giảng dạy với mục đích chính là đảm bảo thực hành bền vững của giáo dục đại học. Thực hành e-learning được thực hiện thông qua các ứng dụng của công nghệ kỹ thuật số và ứng dụng mạng xã hội nhằm thúc đẩy và nâng cao phương pháp sư phạm và giảng dạy hiệu quả. Thực hành giáo dục và học tập số hiện đại cung cấp nhiều nguồn thông tin và kiến thức như các ứng dụng Canva giáo dục, iPad trong giáo dục, Skype, YouTube edu, Google cho giáo dục... [Atsalaki, 2015; Ferriter, 2015; Markton, 2014; Wilson, 2014]. Những công nghệ số này đã góp phần thay đổi diện mạo của môi trường dạy và học trong các trường đại học và thư viện; thúc đẩy và cung cấp cơ hội dạy - học không giới hạn cho sinh viên và giảng viên. Do đó, sinh viên và giảng viên có thể truy cập các nguồn thông tin và kiến thức từ sự thoải mái của các công nghệ số sẵn có. Để phát triển hiệu quả và bền vững e-learning trong giáo dục đại học, ngoài kiến thức chuyên môn, các giảng viên cần phải có kiến thức về sử dụng công nghệ. E-learning là một trong những lĩnh vực giảng dạy sư phạm nhanh nhất trong giáo dục, nơi chương trình giảng dạy trực tuyến được cung cấp theo phương pháp sư phạm kỹ thuật số; khác với cách tiếp cận truyền thống; nhưng yếu tố thành công chính phụ thuộc vào năng lực kỹ thuật của giảng viên. Điều này có thể được thấy rõ trong biểu đồ được chia sẻ bởi GS.TS Nguyễn Hữu Đức (2020) trong bài trình bày tại Hội thảo về Đại học định hướng đổi mới sáng tạo (Hình 1) [Nguyễn Hữu Đức, 2020]. Inspired by “The race between technology and education” Pr. Goldin & Katz (Harvard) Hình 1 – Mối quan hệ giữa công nghệ và giáo dục đại học (kỹ năng) 792 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM Vì vậy, việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICTs – Information and Communication Technology) và dần thực hiện chuyển đổi số trong các cơ sở giáo dục đại học là một quá trình phức tạp liên quan đến việc cung cấp các giải pháp công nghệ cơ bản, kiến thức, kỹ năng và năng lực, quản lý và điều hành hỗ trợ, nguồn lực tài chính... Bên cạnh đó, các nghiên cứu đo lường trên mạng và áp lực kiểm định thúc đẩy khả năng tiếp cận tri thức toàn cầu và phát triển năng lực học thuật, khoa học và giáo dục của các cơ sở giáo dục đại học, trường đại học và thư viện [Webometrics Ranking, 2015: 2014]. Webometrics xếp hạng các trường đại học thế giới là thực hiện đánh giá và xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học dựa trên yếu tố tác động Web nhằm thúc đẩy khả năng hiển thị và truy cập mở của công bố kết quả khoa học. Điều này liên quan đến việc duy trì kho lưu trữ, thúc đẩy truy cập mở, hồ sơ học tập, nghiên cứu và hợp tác với các trường đại học khác và cộng đồng trực tuyến [Shukla & Poluru, 2012]. Sức lan tỏa của cuộc cách mạng kỹ thuật số trong các thư viện đại học và trung tâm tri thức khiến các chuyên gia thông tin trở thành cốt lõi và trọng tâm của các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, học tập và hoạt động học thuật. Việc ứng dụng công nghệ số và tài nguyên internet làm thay đổi bản chất và vai trò của thư viện đại học; các chuyên gia thông tin cần được cung cấp các hệ thống quy trình để cung cấp dịch vụ chất lượng cho người dùng tin. Các thư viện đại học hiện đại cần cung cấp hệ thống số sáng tạo, cho phép các tổ chức và người dùng tin tiếp cận các nguồn thông tin và kiến thức một cách kịp thời và phù hợp. Nói cách khác, chuyển đổi kỹ thuật số đại diện cho các yêu cầu công nghệ hiện đại cần thiết trong các trường đại học và thư viện. Thư viện đại học có thể làm nền tảng cho chuyển đổi số thông qua các hoạt động của mình như tham gia vai trò trong hoạt động dạy và học số; tham gia vào các hoạt động học thuật số (quản trị dữ liệu nghiên cứu, chủ động trong hoạt động truyền thông và xuất bản học thuật; đào tạo học thuật và hợp tác nghiên cứu. Qua đó, thư viện phát triển năng lực kỹ thuật số, với nền tảng cơ sở hạ tầng số, trải nghiệm số dành cho sinh viên... 793 TÌM HIỂU MỘT SỐ MÔ HÌNH CHUYỂN ĐỔI SỐHOẠT ĐỘNG THÔNG TIN THƯ VIỆN ĐẠI HỌC 3. TÌM HIỂU MỘT SỐ MÔ HÌNH CHUYỂN ĐỔI SỐ HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN THƯ VIỆN ĐẠI HỌC Như vậy, ứng dụng công nghệ số, xây dựng mô hình truyền thông học thuật mới, chuyển đổi phương thức dạy học và mô hình nghiên cứu, sự phong phú của các sản phẩm học thuật số... tất cả những điều này thúc đẩy nội dung và cách thức hoạt động thông tin thư viện tiến bộ theo thời đại; định hình lại trạng thái mới của không gian thư viện, tài nguyên và dịch vụ. Học thuật số là sự mở rộng hợp lý khả năng cạnh tranh cốt lõi của các thư viện và công việc mới của các cán bộ thư viện [Angela D., 2015]. Điều này tạo sức mạnh cho sự đổi mới và đang chuyển đổi thực tiễn hoạt động thư viện đại học được tích hợp trong suốt quá trình nghiên cứu; định vị lại cốt lõi của thư viện; tăng cường tập trung vào các quy trình/kỹ năng; và tạo điều kiện cho các hoạt động hướng ngoại, kết nối trong và ngoài nhà trường. Các nguồn thông tin giờ đây đã vượt ra ngoài chữ viết để bao gồm một loạt các đối tượng kỹ thuật số được sinh ra dẫn đến hoạt động học thuật đang dần được chuyển đổi. Ở đó các yếu tố chính cần thiết được xác định để xây dựng cơ sở hạ tầng thể chế, không chỉ hỗ trợ các phương pháp mới mà còn tích hợp tài liệu học thuật vào các mô hình đang phát triển; và phát triển để tạo ra môi trường học thuật số thực sự. Các thư viện luôn hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo và chuyển giao tri thức; mô hình chuyển đổi hoạt động thông tin thư viện đại học có thể là vườn ươm kỹ thuật số trong thư viện - đóng vai trò như một phần mở rộng tự nhiên của chức năng thiết yếu này. Những cơ sở ươm tạo như vậy có thể tạo ra không gian chia sẻ sáng tạo hỗ trợ việc học tập và khám phá ở các quy mô khác nhau từ việc cung cấp không gian khám phá các công cụ để trực quan hóa dữ liệu, mô phỏng... việc có thể hỗ trợ một nhóm các học giả sản xuất và xuất bản các báo cáo kỹ thuật số hoặc chuyên khảo tổng hợp về những phát hiện của họ [Bryan S., 2014]. Bên cạnh đó, mô hình trung tâm học thuật số, là một mô hình dịch vụ mới nổi nhằm cung cấp một diễn đàn để hợp tác giữa các bên liên quan theo đuổi một dự án kỹ thuật số để hỗ trợ lợi ích nghiên cứu của họ và cũng có thể giúp xác định các nguồn tài nguyên cơ sở hạ tầng bằng 794 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM các phương pháp không chính thức. Tuy nhiên, không phải tất cả các trung tâm học thuật số hoặc nhân văn số đều được sáng lập và hoạt động giống nhau. Một số tập trung vào dịch vụ, trong khi những người khác tiến hành nghiên cứu và phân tích hoặc thử nghiệm nhiều hơn với nghiên cứu và phát triển các ứng dụng. Một số mô hình chuyển đổi số hoạt động thông tin thư viện đại học được đề xuất trên cơ sở xem xét đến động lực cần có nhằm thúc đẩy kiến thức, phương pháp tiếp cận và công nghệ mới để trao quyền cho hoạt động học thuật, đặc biệt là trong các lĩnh vực mới nổi. Trung tâm Học thuật số Emory (ECDS – Emory Center for Digital Scholarship) thuộc Trường Đại học Emory ở Atlanta, Georgia, Hoa Kỳ là một trung tâm nghiên cứu hợp tác tạo ra các mô hình học thuật và xuất bản số sáng tạo, bền vững phục vụ cho mục đích sử dụng công cộng và học thuật. Kể từ khi thành lập vào năm 2013, trung tâm đã hợp tác với giảng viên, nhân viên, sinh viên, các tổ chức đối tác và các tổ chức phi lợi nhuận để thúc đẩy nghiên cứu, sư phạm và tiếp cận thông qua các công cụ và phương pháp kỹ thuật số. ECDS làm việc hợp tác để khám phá các khả năng có thể mang lại cho học thuật số. Nhóm chuyên gia về chủ đề của trung tâm làm việc với giảng viên, sinh viên, nhân viên, thủ thư và các đối tác công để tạo ra các dự án sáng tạo và dễ tiếp cận. Qua đó, nhóm nghiên cứu ECDS đã tạo ra một bộ sưu tập các nguồn lực và cơ hội cho giảng viên, sinh viên quan tâm đến học thuật số; mời giảng viên, sinh viên có thể đưa ra các đề xuất về mong muốn hợp tác trong một dự án ECDS [The Emory Center for Digital Scholarship (ECDS), 2020]. Greenhouse Studios - Thiết kế Truyền thông Học thuật tại Uconn (University of Connecticut) là sự liên kết chung của Trường Mỹ thuật, Thư viện UConn, và Cao đẳng Khoa học và Nghệ thuật Tự do tại Đại học Connecticut. Được hỗ trợ bởi các khoản đầu tư dài hạn vào đội ngũ nhân viên và không gian cho trường đại học, Greenhouse Studios đặt mục tiêu xây dựng trong khuôn viên trường đại học và chia sẻ với những người khác liên quan đến xuất bản học thuật, quy trình làm việc và văn hóa làm việc phù hợp với việc tạo ra truyền thông học thuật đa 795 TÌM HIỂU MỘT SỐ MÔ HÌNH CHUYỂN ĐỔI SỐHOẠT ĐỘNG THÔNG TIN THƯ VIỆN ĐẠI HỌC phương thức. Greenhouse Studios được phát triển như một mô hình sản xuất học thuật dựa trên thiết kế, dựa trên điều tra, dựa trên sự cộng tác, với sứ mệnh lấy truyền thông học thuật liên tục, gần gũi và công bằng làm trung tâm. Mô hình này tập hợp các quy trình làm việc được chia nhỏ lại với nhau, xóa nhòa các ranh giới làm cản trở việc nhận thức đầy đủ hơn khả năng của nhiều loại hình tích hợp và kỹ thuật số ngày càng tăng trong lĩnh vực xuất bản [Greenhouse Studios, 2020]. Gale Digital Scholar Lab - được phát triển với sự tham gia của những người thử nghiệm beta trên nhiều tổ chức và cơ quan khác nhau, được thiết kế để chuyển đổi cách các học giả và sinh viên truy cập và phân tích các tài liệu nguồn chính của Gale bằng cách phát triển một mô hình hoạt động với việc tạo ra những khả năng mới bằng cách đưa ra các giải pháp cho những thách thức phổ biến nhất mà các nhà nghiên cứu trong ngành nhân văn kỹ thuật số ngày nay phải đối mặt. Cơ chế hoạt động của mô hình được thực hiện theo quy trình: - Tạo bộ nội dung: Gale Digital Scholar Lab cung cấp cho người dùng khả năng tạo các bộ nội dung tùy chỉnh chứa tới 10.000 tài liệu. Người dùng có thể tìm kiếm trên các tài khoản Gale Primary Sources trong thư viện của họ và chọn liên tục các tài liệu để thêm vào bộ nội dung tùy chỉnh của họ; - Phân tích bộ nội dung: Người dùng có thể phân tích và thẩm vấn dữ liệu bằng các công cụ phân tích văn bản và hình ảnh hóa được tích hợp trong Gale Digital Scholar Lab. Các phương pháp phân tích nhân văn kỹ thuật số bao gồm: Nhận dạng đối tượng được đặt tên, Lập mô hình chủ đề, Các phần của lời nói, v.v. - Quản lý và Chia sẻ: Tập hợp nội dung của người dùng vẫn được lưu trong Gale Digital Scholar Lab cho phép họ quản lý nghiên cứu của mình cho các dự án dài hạn. Người dùng có thể xuất bản kết quả đầu ra của họ với sự tự tin vẫn giữ được tất cả các quyền sở hữu trí tuệ và tự do chia sẻ kết quả phân tích. Với cơ chế hoạt động trên, hoạt động của mô hình đã xóa bỏ rào cản đối với học thuật số, hợp lý hóa quy trình xử lý công việc, cho phép 796 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM các nhà nghiên cứu dành nhiều thời gian hơn để xác định dữ liệu chưa được khám phá trước đây, kiểm tra lý thuyết, phân tích kết quả và có được những hiểu biết mới. Đồng thời mang đến sự đổi mới cho nhân văn kỹ thuật số khi góp phần làm thay đổi cách các học giả hợp tác với nhau để thực hiện các loại nghiên cứu mới. Gale Digital Scholar Lab tiếp tục được phát triển trở thành Trung tâm kiến thức tiến tới học thuật số dành cho tất cả mọi người. Trung tâm Kiến thức cung cấp cho người dùng các công cụ, tiện ích hỗ trợ mà họ cần để hiểu và sử dụng lượng lớn thông tin và bộ kỹ năng có sẵn thông qua Phòng thí nghiệm. Nó bao gồm các video có hướng dẫn trực tiếp do các chuyên gia về nhân văn số của phòng lab thực hiện, các dự án mẫu, bảng thuật ngữ, câu hỏi thường gặp và nhiều hơn nữa [Gale Digital Scholar Lab, 2020]. Mô hình Dịch vụ E-Learning và Thư viện điện tử tại Đại học Ghana: Trên nền tảng ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động, thư viện có thể đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo rằng công cụ học tập điện tử đang được sử dụng tối đa bằng cách đảm bảo các liên kết tùy chỉnh đến các tài nguyên và dịch vụ của nó. Thư viện, thông qua chương trình kiến thức thông tin của nó chương trình, có thể hỗ trợ tạo nhận thức và đào tạo. Hợp tác với giảng viên để phát triển các module và các chương trình dành cho sinh viên cũng sẽ khuyến khích việc sử dụng công cụ học tập với máy tính và các phương tiện có thể dễ dàng truy cập Internet. Thư viện có thể điều chỉnh quy định để cho phép máy tính của họ được sử dụng cho các mục đích khác nhau. Mặc dù thư viện trường đại học sẽ không có quyền kiểm soát trực tiếp đối với quy mô lớp học, nó có thể đề xuất cho các nhà quản lý trường đại học để có các lớp học cho phép sinh viên giao tiếp hiệu quả với giảng viên trực tuyến; thư viện cố gắng tích hợp các dịch vụ của họ vào môi trường e-learning; và với sự hỗ trợ đầy đủ về thể chế, thư viện sẽ có thể liên kết liền mạch thành một môi trường học tập điện tử hoàn toàn phù hợp trong trường đại học [Dadzie, 2009]. DS/DH Start-up (Digital Scholarship/Digital Humanities Start-up) - mô hình thư viện để nâng cao học thuật thông qua hợp tác được thực hiện bởi một phòng thí nghiệm học thuật số tại Đại học Bang Middle 797 TÌM HIỂU MỘT SỐ MÔ HÌNH CHUYỂN ĐỔI SỐHOẠT ĐỘNG THÔNG TIN THƯ VIỆN ĐẠI HỌC Tennessee (MTSU – Middle Tennessee State University). Khuôn khổ khởi động bao gồm xác định kỹ thuật số dành cho hoạt động học thuật, vai trò lãnh đạo, các bước để thành công, đầu tư vào quan hệ đối tác, và tài liệu nền tảng đã dẫn đến thành lập thư viện thành trung tâm học thuật số của các trường đại học. Thư viện bắt đầu bằng việc đóng góp vào việc phát triển các bộ sưu tập số giữa một nhóm đa tổ chức vào năm 2004. Trải nghiệm này cho phép Thư viện chuyển sang tạo bộ sưu tập kỹ thuật số địa phương, sau đó phát triển thành bộ sưu tập kỹ thuật số khu vực nhờ mua phần cứng và phần mềm CONTENTdm vào năm 2007. Với sự quan tâm của các giáo viên và nhà nghiên cứu, bộ sưu tập kỹ thuật số được tạo ra để cung cấp khả năng tiếp cận văn hóa vật chất bao gồm các giáo án và các bài tiểu luận học thuật xoay quanh việc tìm kiếm quốc tịch ở Tennessee từ năm 1865 đến năm 1945. Dự án hợp tác được hoàn thành bởi các thành viên của Đối tác kỹ thuật số: một nhóm gồm thủ thư, nhà phát triển Web, nhà lưu trữ, nhà nghiên cứu, giám đốc trung tâm và sinh viên [Miller, 2016]. Phát triển các dịch vụ học thuật số: Trong nhiều thế kỷ, thư viện nói chung, thư viện đại học nói riêng đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ nghiên cứu và sáng tạo tri thức [Y. Zhao, 2009]. Dịch vụ học thuật số (Digital Scholarship Services – DSS) có thể được coi là một phần mở rộng tự nhiên của các dịch vụ truyền thống trong thư viện nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tạo và chuyển giao tri thức [Bryan S., 2014]. DSS có thể bao gồm việc tạo không gian ảo hoặc vật lý để học tập và nghiên cứu; từ cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và quản trị, đến hỗ trợ các nhóm nghiên cứu liên ngành làm việc trên dữ liệu lớn hoặc nghiên cứu dọc [Tzoc, E., Millard, J., 2017]. Việc phát triển và thực hiện DSS một cách có hệ thống và cấu trúc là thực sự cần thiết để hỗ trợ hiệu quả hoạt động nghiên cứu đa dạng được thực hiện bởi giảng viên, nhà nghiên cứu và sinh viên của trường đại học. Để làm được như vậy, DSS cần có khả năng tạo điều kiện, hỗ trợ và hợp tác với các nhà nghiên cứu trong tất cả các hoạt động trong vòng đời của dự án nghiên cứu, từ khi bắt đầu cho đến công bố và phổ biến kết quả nghiên cứu. Từ kết quả phân tích và nghiên cứu tài liệu, nhóm tác giả Lihong Zhou, 798 PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM Xinyu Lu and Tim Zijlstra đã đề xuất 25 loại hình dịch vụ theo 06 nhóm chủ đề khác nhau: dịch vụ hỗ trợ, hình thành ý tưởng nghiên cứu, tìm đối tác nghiên cứu, viết đề xuất, quy trình nghiên cứu và công bố [Lihong Zhou, Xinyu Lu and Tim Zijlstra, 2018]. Qua một số ví dụ ở trên, có thể nhận thấy nhiều dạng chuyển đổi số hoạt độn