Tín ngưỡng phồn thực trong Kendi gốm hoa lam Việt Nam thời Lê Sơ

Tóm tắt Trong tư duy nông nghiệp của người Việt, yếu tố phồn thực không chỉ gắn với sự sinh sôi mà còn gắn với sự nuôi dưỡng. Trong tạo hình dân gian Việt Nam, ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực được biểu hiện ở sự cường điệu các bộ phận cơ thể người với mong ước về sự sinh sôi, nảy nở. Thời Lê sơ, biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực được thể hiện thông qua hình tượng vú trong tạo hình vòi ấm gốm hoa lam dùng để uống rượu (Kendi), nó gắn liền với ý nghĩa tượng trưng cho nguồn sống, nguồn nuôi dưỡng dồi dào trong tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp lúa nước.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 237 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tín ngưỡng phồn thực trong Kendi gốm hoa lam Việt Nam thời Lê Sơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
51Số 29 (Tháng 9 - 2019) TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Sau khi giành lại đất nước từ tay nhà Minh, Lê Thái Tổ đã thực hiện cuộc cải cách hành chính, khôi phục và thúc đẩy kinh tế phát triển làm thay đổi cơ cấu xã hội. Từ việc xóa bỏ chế độ phong thái ấp, không để tầng lớp quý tộc thuộc hoàng tộc được ban đất thế nghiệp nắm giữ vai trò chính trị, xã hội thời Lê sơ thu gọn vào hai giai cấp cơ bản là địa chủ phong kiến và nông dân, tầng lớp nô tỳ bị xóa bỏ, tầng lớp thợ thủ công và thương nhân tách ra từ tầng lớp nông dân nhờ chính sách phát triển thương nghiệp. Ngoài sự phát triển nghề thủ công và thương nghiệp tại địa phương và các làng nghề, triều đình thực hiện việc tập trung thành các phố nghề, đưa Đông Kinh trở thành trung tâm thương mại lớn của cả nước [10, tr.330]. Thời kỳ này, Nho giáo chiếm vị trí chi phối toàn diện trên mọi phương diện của đời sống xã hội, Nhà nước phong kiến quan liêu hạn chế sự phát triển của Phật giáo và Đạo giáo, nhưng về cơ bản, thời Lê sơ vẫn duy trì từ tín ngưỡng dân gian đến đạo Phật và đạo Lão. Theo đánh giá của học giả Đào Duy Anh “Về tính chất tinh thần thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường. Sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn luận lý. Phần nhiều TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC TRONG KENDI GỐM HOA LAM VIỆT NAM THỜI LÊ SƠ PHAN THANH SƠN Tóm tắt Trong tư duy nông nghiệp của người Việt, yếu tố phồn thực không chỉ gắn với sự sinh sôi mà còn gắn với sự nuôi dưỡng. Trong tạo hình dân gian Việt Nam, ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực được biểu hiện ở sự cường điệu các bộ phận cơ thể người với mong ước về sự sinh sôi, nảy nở. Thời Lê sơ, biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực được thể hiện thông qua hình tượng vú trong tạo hình vòi ấm gốm hoa lam dùng để uống rượu (Kendi), nó gắn liền với ý nghĩa tượng trưng cho nguồn sống, nguồn nuôi dưỡng dồi dào trong tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp lúa nước. Từ khóa: Tín ngưỡng phồn thực, kendi, gốm hoa lam, thời Lê sơ Abstract In the agricultural thinking of Vietnamese people, the element of fertility culture is not only associated with reproduction but also associated with nurturing. In Vietnamese folklore, the influence of fertility beliefs is manifested in the exaggeration of human body parts with the desire for reproduction and proliferation. In the post Le dynasty, the manifestation of the fertility beliefs was expressed through the image of breast on the faucet being made of blue pattern ceramic used for drinking wine (Kendi). It is associated with the symbol of meanings of existence in the fertility beliefs derived from wet rice farming residents. Keywords: Fertility beliefs, kendi, blue pattern ceramic, Post Le dynasty Số 29 (Tháng 9 - 2019)52 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA người có tính ham học...” [1, tr.22]. Mặt khác, trên phương diện văn hóa học, văn hóa là sản phẩm của con người xã hội, diễn trình hình thành và phát triển của văn hóa luôn song hành cùng tiến trình lịch sử, nó có tính độc lập tương đối với lịch sử, và “là nhân tố quan trọng trong nền sản xuất tổng hợp có hàm lượng trí tuệ cao, văn hóa như chất keo dính kết các mối quan hệ kinh tế, chính trị và xã hội tạo nên hình hài và bản sắc dân tộc, mỗi quốc gia, mỗi khu vực. Văn hóa có khả năng bao quát một cách trực tiếp, đảm bảo tính bền vững xã hội, tính kế thừa và không bị trộn lẫn ngay cả khi hội nhập vào những cộng đồng lớn hơn. Tính độc đáo của mỗi nền văn hóa dân tộc, hay sự khác nhau của các nền văn hóa không chỉ bị quy định bởi những điều kiện môi trường, lịch sử xã hội khác nhau mà còn bởi tâm lý con người, ngay cả khi rất gần nhau, vẫn có ý thức khu biệt ta với người” [4, tr.10-11]. Theo đó cho thấy, trong cái đặc trưng văn hóa “tam giáo đồng đường” thời Lê sơ, yếu tố tín ngưỡng dân gian, nổi trội là yếu tố tín ngưỡng phồn thực luôn là nhân tố tích cực tạo nên sức mạnh “Việt hóa” phi thường của người Việt. Điều đó được biểu hiện khá rõ nét ở hình tượng bộ phận cơ thể người trong tạo hình kendi gốm hoa lam thời Lê sơ. 1. Tín ngưỡng phồn thực với nghĩa được hiểu: Phồn nghĩa là nhiều, là tràn đầy; thực là biểu hiện cho sự sinh sôi của vạn vật bao hàm tính phổ quát rộng lớn trong kho tàng tín ngưỡng văn hóa dân gian Việt Nam. Quan niệm về tín ngưỡng phồn thực vốn có mối gắn kết chặt chẽ với tín ngưỡng nông nghiệp, với ước vọng cầu được mưa thuận gió hòa, cơm no áo ấm từ ngàn đời của cư dân. Cư dân nông nghiệp trồng lúa nước coi các biểu tượng âm - dương, trời - đất, hòa quyện giữa sinh khí tự nhiên để tồn tại và phát triển là những tác nhân của sự sinh sôi nảy nở của vạn vật. Trong mọi thời đại, ước nguyện được tìm hiểu, nắm bắt mọi điều về thế giới xung quanh đời sống con người vẫn luôn tồn tại song hành cùng những tiến bộ mới của xã hội [9]. Có thể nói, nếu lý trí tạo bởi sự khổ luyện để hình thành con người xã hội, thì tín ngưỡng tôn giáo là gốc của cái tình trong sự phát triển trí tuệ của con người, nơi con người trở về với bản thể tự nhiên của mình. Lý trí và tình cảm luôn là hai mặt không thể tách rời trong một con người với tư cách là một thực thể xã hội. Mặt khác, trong lịch sử, các vị vua của Việt Nam, xét đến cùng cũng có nguồn gốc từ trong dân, tạo nên cái đặc thù của xã hội Việt Nam là không có giai cấp quý tộc lâu đời. Việc các bậc vua chúa của Việt Nam, ngoài sự vận dụng một tư tưởng tôn giáo nào đó làm tư tưởng chủ đạo, vẫn tiến hành các nghi lễ quan trọng theo tín ngưỡng dân gian và tôn giáo khác trong xã hội cũng là điều dễ hiểu. Như vậy, hiển nhiên đời sống tín ngưỡng tôn giáo cũng là một biểu hiện của cái đẹp trong hiện thực đời sống văn hóa, với đặc trưng biểu hiện cơ bản là tín ngưỡng tôn giáo “đa thần”. Các triều đại thời Lê sơ, tuy lấy nền tảng tư tưởng độc tôn Nho giáo (Tống Nho), nhưng một mặt lại vận dụng theo điều kiện đặc thù của Đại Việt với mục đích tạo sự thống nhất cho một hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước phong kiến có tính tập quyền cao, nhằm đảm bảo sự bền vững của nền chính trị trên mọi phương diện; mặt khác, không triệt tiêu hẳn ảnh hưởng từ các tôn giáo khác như Phật giáo và Lão giáo. Việc hạn chế, thậm chí có phần khá hà khắc với các tôn giáo khác, vừa để thực hiện mục đích nhất quán nêu trên, vừa là sự thanh lọc để đảm bảo tính đúng đắn của các tôn giáo khác trong đời sống tinh thần nhân dân. Bản thân các vị vua thời Lê sơ cũng có những hành động bảo tồn các tín ngưỡng dân gian và vận dụng các tôn giáo khác trong một số công việc quan trọng của quốc gia. Lê 53Số 29 (Tháng 9 - 2019) TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Lợi trước khi lên ngôi hoàng đế đã “sai quan chia đi tế các thần kỳ núi sông miếu xã các xứ và lăng tẩm của các triều đại trước” [5, tr.523]. Năm 1429, Lê Thái Tổ ra lệnh cho “các tăng đạo, người nào thông thạo kinh điển, giữ tiết hạnh cẩn thận,... đến sảnh đường trình diện, kiểm xét khảo thí, ai đỗ thì cho làm tăng đạo, ai không đỗ thì bắt hoàn tục” [5, tr.531]. Vua Lê Thái Tông đã làm lễ Phật để cầu mưa [5, tr.542]. Thời kỳ này, việc trùng tu các chùa vẫn được coi trọng, Phật giáo vẫn giữ vai trò là nhân tố chủ đạo cho đời sống tinh thần của dân gian. Trong khi đó, Đạo giáo thời Lê sơ chủ yếu là Đạo giáo thần tiên và Đạo giáo phù thủy hội với tín ngưỡng dân gian, với nội dung niệm chú, đặt bùa yểm, trừ bỏ tà ma, chữa bệnh cứu người. Đạo giáo thần tiên hấp dẫn giới nho sĩ bởi tinh thần siêu thoát, phiêu du và tạo cảm hứng sáng tác thơ văn [13]. Với dân gian, cuộc sống của cư dân nông nghiệp lúa nước luôn gắn liền với sự khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên, do đó, khát vọng về sự sung túc là ước muốn ngàn đời của họ. Họ không quan tâm nhiều đến các vấn đề luân thường đạo lý, cái họ quan tâm là tất cả những gì gắn với sự sinh sôi đều được nâng lên thành yếu tố thiêng để thờ cúng như sự tự an ủi khi họ phải gánh chịu những hậu quả của thiên tai, cũng như để nhân đôi niềm hân hoan khi họ được mùa. Tất cả đều được biểu hiện rõ nét trong mọi hoạt động văn hóa vật chất cũng như tinh thần. Trong nghệ thuật gốm thời này, các loại quả như quả bầu tồn tại phổ biến trong tạo hình là các dáng nậm, lọ mang ý nghĩa là bình nước cam lồ mà Quan Âm dùng để giải thoát phiền não cho chúng sinh; mặt khác quả bầu cũng như quả na, lựu còn là hiện thân của sự sinh sôi, phát triển - tượng trưng cho sự được mùa trong ý thức của cư dân nông nghiệp; nho luôn đi cùng dơi hay sóc biểu hiện cho sự cầu mong no đủ, hạnh phúc muôn mặt [2, tr.268- 269]. 2. Ở hình tượng con người, với tính cụ thể của nó, tính phồn thực trở nên dễ tiếp nhận hơn khi mà mọi yếu tố thuộc nội dung của nó đều có nguồn gốc từ quan niệm tín ngưỡng hay cả những quan niệm phồn thực mang yếu tố ngoại lai được “Việt hóa” để trở thành một đặc trưng riêng của người Việt, điển hình là hình tượng vú, một bộ phận của cơ thể con người trong tạo hình Kendi - một loại ấm đựng rượu không có quai, vòi ấm mang hình tượng vú người phụ nữ có kích thước lớn hơn nhiều vòi ấm thông thường, được tối giản về dạng hình khối cơ bản, thuôn bầu nhỏ dần về phía miệng vòi, vừa mang chức năng của vòi ấm lại vừa mang chức năng tay cầm. Khái niệm Kendi bắt nguồn từ gốc chữ Phạn Kundika là bình nước. Kendi gốm cổ Champa là loại bình không quai có vòi, dùng để đựng nước thiêng hay loại lễ phẩm khác dùng trong nghi lễ ở các đền tháp, cũng có thể dùng trong đời thường. Tên gọi Kendi luôn gắn với đồ để uống có vòi, như các đồ dùng để uống truyền thống ở Đông Nam Á thường không có quai nhưng có thể có vòi. Ở Indonesia ngày nay, Kendi được dùng để chỉ đồ dùng nước nghi lễ và gia dụng [7]. Kundika/Kendi có lẽ đã được vận chuyển từ Ấn Độ đến Đông Nam Á trong làn sóng tiếp xúc đầu tiên giữa hai khu vực cùng với Phật giáo và Ấn Độ giáo. Mặc dù chưa biết việc chuyển tải diễn ra như thế nào, một giả thuyết được chấp nhận chung là khoảng 2.000 năm trước các tuyến đường biển giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã được thiết lập để buôn bán. Theo đó, về nguồn gốc, kendi đã từng xuất hiện rộng rãi ở Ấn Độ, Trung Quốc và ở các nước Đông Nam Á như Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Thái Lan và Việt Nam. Trong văn hóa Óc Eo (thế kỷ I - VII), Kendi là loại bình có vòi thân hình cầu, phình tròn ở giữa, thu nhỏ ở cổ và đáy bình, miệng Số 29 (Tháng 9 - 2019)54 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA bình loe cong. Kích thước của kendi Óc Eo thường khá lớn, nhiều chiếc có hoa văn khắc vạch tam giác hay sóng nước ở thân, đôi khi kendi được tô màu đỏ (thổ hoàng) hay tô màu đen chì rất đẹp. Kendi thường được tìm thấy trong các phế tích đền tháp thuộc văn hóa Óc Eo, là di vật dùng trong các nghi lễ tôn giáo Bàlamôn, những chiếc vòi bình mang bóng dáng ngẫu tượng Linga - tượng trưng cho thần Siva. Trong các di tích văn hóa Champa, kendi thường được tìm thấy trong các phức hợp di chỉ cư trú - đền tháp - thành lũy, là đồ gốm phục vụ nghi lễ - tôn giáo, niên đại khá sớm, từ thế kỷ IV-VI và kéo dài đến thế kỷ XIV. Ở Trung Quốc, từ đời Tống, Nguyên, kendi là loại ấm được dùng theo phong tục uống rượu bằng mũi của người miền Nam, có hình dáng củ tỏi hoặc quả bầu với nhiều hình thức vòi khác nhau, nhưng nhìn chung đều có cấu trúc phần thân vòi phình thuôn tròn và nhỏ dần đến miệng vòi, được sản xuất tại các tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến và xuất khẩu ra khắp vùng Đông Nam Á [3]. Thời Lê sơ, ở Việt Nam, kendi phổ biến là loại ấm uống rượu thân bầu dẹt, cổ dài, miệng loe phẳng, vòi bầu hình vú thuôn và thu nhỏ ở phần miệng, trang trí hoa lam với các đề tài từ linh vật, hoa lá đến phong cảnh. Đôi khi có sự kết hợp trang trí bằng kim loại ở vành miệng và đầu vòi. Với hơn một ngàn năm lịch sử (thế kỷ I - II đến thế kỷ XV), vương quốc Champa chịu ảnh hưởng sâu sắc của quá trình Ấn Độ hóa với sự tôn thờ thần Siva và các vị thần Ấn Độ giáo. Bên cạnh đó, từ vua đến dân Champa còn dành niềm sùng kính đối với một vị thần hoàn toàn bản địa, được nâng lên tầm tín ngưỡng, sánh ngang bằng với các vị thần tối cao trong hệ thống thần thoại Ấn Độ, đó là thần Uroja. Uroja trong tiếng Sankrit có nghĩa là “vú phụ nữ” (Thần Vú, Mẹ Vú, Bà Vú). Thần Uroja được gắn liền với cụm từ jananībhūmi (tiếng Sankrit: jananī = mẹ; bhūmi = đất, xứ sở). Từ thế kỷ IX về sau, vị nữ thần bản địa tối thượng Uroja được gọi tên pha lẫn tiếng Chăm và tiếng Sankrit là Yan Pu Nagara trong các văn bia, hoặc thuần theo tiếng Chăm là Pō Inư Nưgar (Pō: danh xưng tôn vinh; Inư: Mẹ; Nưgar: đất nước, xứ sở), người Việt gọi là Pônagar [12]. Hình ảnh bầu vú phụ nữ xuất hiện trong nghệ Hình 2. Kendi thời Lê sơ thế kỷ thứ XV với trang trí kỳ lân trong mây, vòi hình vú vẽ mây lửa, vai vẽ motip hoa cúc, đế vẽ cánh sen cô ban dưới men [14, tr.336]Hình 1. Kendi của người Chăm thế kỷ VII - X [15] 55Số 29 (Tháng 9 - 2019) TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA thuật điêu khắc Chăm ở các bệ thờ, trong nghệ thuật gốm Chăm với loại kendi phát hiện tại di tích Gò Sành (Bình Định). Trong nghệ thuật gốm thời Lý - Trần, sự tiếp nhận hình tượng vú cùng nguyên nghĩa của hình tượng nghệ thuật tạo hình Chăm là rất sâu đậm, nó như một sự thay thế các yếu tố nghệ thuật Trung Hoa sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc, để rồi cùng với cái hào khí của một dân tộc mới giành được độc lập, trong hơi thở tự do, nó là bằng chứng rõ nét của tinh thần “giải Hoa” để tìm lại chính mình của văn hóa Đại Việt. Thời kỳ này, hình tượng vú xuất hiện trên gốm đan xen cùng các hình tượng trong Phật thoại và thần thoại Chăm như hình tượng kinara, gadura hay apsara Thời Lê sơ, Đại Việt vẫn có những cuộc chinh phạt Champa ở phía Nam mà Lê Thành Khôi gọi là mở rộng lãnh thổ bằng việc áp dụng chính sách bành trướng khiến Trung Quốc phải kính nể thời Lê Thánh Tông [8, tr.282]. Đương nhiên, giữa Đại Việt và Champa vẫn có những mối liên hệ về văn hóa bằng nhiều con đường như các cuộc bình Chiêm ở thời Lý - Trần. Những hiện vật kendi thời Lê sơ, một mặt có thể được xem là sự kế thừa truyền thống từ các thời Lý - Trần, mặt khác, chịu một số ảnh hưởng qua các cuộc tranh chấp, chinh phạt mở rộng địa giới về phía Nam. Tuy nhiên, dường như các yếu tố đó chỉ mang tính phụ trợ bởi nghệ thuật kendi thời Lê sơ còn mang những đặc thù riêng: Thứ nhất, đặc trưng nổi bật của nghệ thuật gốm thời Lê sơ là sự phát triển rực rỡ của dòng gốm hoa lam. Thứ hai, thời Lê sơ, văn hóa Việt thay vì tinh thần “giải Hoa” thời Lý - Trần là sự vận dụng triệt để tinh thần “Việt hóa”, một đặc trưng nổi bật tạo nên sự phong phú, đa dạng nhưng vẫn mang tính thống nhất của văn hóa Việt. Theo đó, nghệ thuật gốm hoa lam Việt Nam thời Lê sơ có sự ảnh hưởng gần như trực tiếp từ gốm hoa lam Trung Quốc [11, tr.31-33], hiển nhiên về cơ bản kendi gốm hoa lam thời Lê sơ cũng không là ngoại lệ. Thứ ba, kendi Trung Quốc gắn với tục uống rượu bằng mũi, tục lệ này chỉ tồn tại ở một số dân tộc vùng giáp biên. “Những người tị ẩm không phải cư dân trồng lúa nước mà làm nương rẫy, săn bắn. Họ đều là cư dân vùng núi dọc biên giới Việt Nam - Trung Quốc ngày nay” [6, tr.90]. Người Việt không có phong tục này, kendi của người Việt chỉ đơn thuần là ấm rượu, có thể được uống trực tiếp bằng miệng qua vòi ấm mang hình tượng vú. Thứ tư, ở kendi gốm hoa lam Việt Nam thời Lê sơ, hình tượng vú ở vòi ấm gắn liền với ý nghĩa tượng trưng cho nguồn sống, nguồn nuôi dưỡng như trong tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp lúa nước. Rõ ràng, từ hình thức đến nội dung trong tạo hình chiếc ấm uống rượu, có tên gọi chung là kendi có mặt ở khắp Trung Quốc, Ấn Độ và cả Đông Nam Á, đến thời Lê sơ vẫn giữ nguyên giá trị. Sự phản ánh hình tượng con người bằng hình thức phản ánh một bộ phận trên cơ thể con người là vú người phụ nữ, một mặt là sự kế thừa và phát triển của nghệ thuật gốm Việt Nam truyền thống, mặt khác, nó phản ánh sự ảnh hưởng của một tín ngưỡng ngoại lai làm đa dạng hơn tính đa thần của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Trong tạo hình dân gian Việt Nam, sự ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực được biểu hiện ở sự cường điệu các bộ phận vú, hông và bộ phận sinh dục, với mong ước về sự sinh sôi, nảy nở; bộ ngực nở nang tượng trưng cho nguồn dinh dưỡng dồi dào cho cuộc sống con người. Ca dao Việt Nam có câu “Đàn bà không vú lấy gì nuôi con”. Số 29 (Tháng 9 - 2019)56 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Trên phương diện phản ánh thẩm mỹ, tín ngưỡng và tôn giáo là cội nguồn cho sự ra đời của các nền văn minh của loài người. Tín ngưỡng, tôn giáo là chỗ dựa vững chắc cho đời sống tinh thần của con người, là cơ sở để con người lý giải các vấn đề ngoài tầm nhận thức. Trong tư duy nông nghiệp của người Việt, yếu tố phồn thực không chỉ gắn với sự sinh sôi mà còn gắn với sự nuôi dưỡng. Nó như một sự bổ sung để hoàn thiện hơn tín ngưỡng phồn thực dân gian của người Việt, bởi từ nguyên gốc của hình tượng vú là sự hiện diện của Mẹ đất nước, Mẹ xứ sở, là nơi sinh ra và cũng là nơi nuôi dưỡng, là biểu hiện của nguồn dinh dưỡng vô tận cho cuộc sống dương gian. Về phương diện nghệ thuật tạo hình, đây là nét độc đáo khi thể hiện hình tượng con người bằng một bộ phận cơ thể qua ngôn ngữ nghệ thuật gốm hoa lam thời Lê sơ. Trên phương diện mỹ học, đây là một hình thức thể hiện cái đẹp trong văn hóa tín ngưỡng phồn thực thời Lê sơ. Như vậy, hình tượng vú ở vòi ấm uống rượu kendi không chỉ đơn thuần phản ánh sự ảnh hưởng của tín ngưỡng ngoại lai - tín ngưỡng thờ thần vú Pônagar của người Chăm, hay về công năng là đồ dùng cho phong tục uống rượu bằng mũi ở Trung Quốc. Các yếu tố ngoại lai này khi hòa cùng tín ngưỡng phồn thực dân gian của người Việt đã được bản địa hóa và trở thành một phần của văn hóa tín ngưỡng riêng có của người Việt, với cách nhìn nhận đặc trưng của cư dân nông nghiệp vùng văn hóa lúa nước, hồn nhiên, đơn giản pha chút trần tục dân dã, được phản ánh qua hình tượng vú trên chiếc ấm uống rượu kendi thời Lê sơ. P.T.S (ThS., Khoa Mỹ thuật truyền thống, Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp) Tài liệu tham khảo 1. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 2. Trần Lâm Biền (2000), Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 3. Dawn F. Rooney (2003), “Kendi in the Cultural Context of Southeast Asia A Commentary”, kendi/kendi_album/kendi.htm 4. Phạm Đức Dương (2000), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Đại Việt sử ký toàn thư (2011), Nxb. Thời đại, Hà Nội. 6. Nguyễn Duy Hinh (2004), Văn minh Lạc Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 7. “Kendi - bình gốm cổ Chămpa độc đáo”, 8. Lê Thành Khôi (2014), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, Nxb. Thế giới, Hà Nội. 9. Hoàng Oanh, Lê Phương (2015), “Tín ngưỡng phồn thực trong văn hóa