Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và vai trò của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong giáo dục gia đình ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay

Tóm tắt Thờ cúng tổ tiên là một hiện tượng xã hội đã xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử nhân loại và đã tồn tại ở nhiều dân tộc trên thế giới. Ở Việt Nam, loại hình tín ngưỡng này tồn tại phổ biến ở Đồng bằng Bắc Bộ và giữ một vai trò quan trọng trong giáo dục gia đình của người dân. Vai trò của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thể hiện ở chỗ, nó nhắc nhở con cháu phải luôn nhớ đến cội nguồn, biết kính trọng, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ. Đồng thời, giúp con cháu noi theo gương sáng của tổ tiên, nỗ lực học tập và lao động để trở thành người có ích. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được coi là một nét tinh hoa của truyền thống văn hóa và đã trở thành đạo lý, lẽ sống của người dân Việt Nam nói chung và người dân ở Đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Bài báo đi sâu nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân Đồng bằng Bắc Bộ thông qua triết lý nhân sinh ẩn dấu trong các hoạt động thờ cúng, từ đó làm rõ vai trò của nó trong giáo dục gia đình, qua đó góp phần vào việc gìn giữ và phát huy những giá trị đạo đức quý báu trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân Đồng bằng Bắc Bộ.

pdf10 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 475 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và vai trò của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong giáo dục gia đình ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
110 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019 Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và vai trò của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong giáo dục gia đình ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay Religion ancestor worship and its role in the education of families in the Northern Plains today Nguyễn Thị Hảo Email: nguyenhao1310@gmail.com Trường Đại học Sao Đỏ Ngày nhận bài: 22/10/2018 Ngày nhận bài sửa sau phản biện:13/3/2019 Ngày chấp nhận đĕng: 28/6/2019 Tóm tắt Thờ cúng tổ tiên là một hiện tượng xã hội đã xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử nhân loại và đã tồn tại ở nhiều dân tộc trên thế giới. Ở Việt Nam, loại hình tín ngưỡng này tồn tại phổ biến ở Đồng bằng Bắc Bộ và giữ một vai trò quan trọng trong giáo dục gia đình của người dân. Vai trò của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thể hiện ở chỗ, nó nhắc nhở con cháu phải luôn nhớ đến cội nguồn, biết kính trọng, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ. Đồng thời, giúp con cháu noi theo gương sáng của tổ tiên, nỗ lực học tập và lao động để trở thành người có ích. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được coi là một nét tinh hoa của truyền thống vĕn hóa và đã trở thành đạo lý, lẽ sống của người dân Việt Nam nói chung và người dân ở Đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Bài báo đi sâu nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân Đồng bằng Bắc Bộ thông qua triết lý nhân sinh ẩn dấu trong các hoạt động thờ cúng, từ đó làm rõ vai trò của nó trong giáo dục gia đình, qua đó góp phần vào việc gìn giữ và phát huy những giá trị đạo đức quý báu trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân Đồng bằng Bắc Bộ. Từ khóa: Nhân sinh quan; tín ngưỡng; tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ; giáo dục gia đình. Abstract Ancestry worship is a popular belief of the Vietnamese in the Northern Delta. It has a positive side to remind children to always remember the source, respect, support grandparents, parents. It is considered as a quintessence of cultural traditions and has become the moral and living standards of the Vietnamese people. The worship of ancestors on the one hand contributes to preserving and promoting the good values of traditional culture. On the other hand, it involves a number of negative factors, affecting certain development and strengthening social relationships. This article explores the ancestor worship of the Vietnamese in the Northern Delta through the humanistic philosophy concealed in the worship activities, from there to clarify its role in family education, thereby contribute to preserving and promoting the precious moral values in ancestor worship and beliefs of the inhabitants of the Northern Plains. Keywords: Humanities; beliefs; ancestral worship of the Vietnamese in the Northern Delta; family education. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Cùng với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa hội nhập quốc tế của đất nước, Đồng bằng Bắc Bộ cũng chịu những tác động to lớn của cơ chế thị trường, sự phân hóa giàu - nghèo giữa các dân tộc, môi trường sinh thái bị hủy diệt, đã tạo ra tâm lý bất an cho người dân nơi đây. Đó cũng là nguyên nhân tâm lý, xã hội và hiện thực dẫn đến các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng có chiều hướng gia tĕng. Hoạt động thờ cúng tổ tiên trong gia đình, dòng họ diễn ra khá phổ biến ở các địa phương. Điều đó đã góp phần gìn giữ và phát huy những giá trị tốt Người phản biện: 1. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà 2. TS. Phạm Vĕn Dự LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC 111Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019 đẹp của vĕn hóa truyền thống, nhưng mặt khác do bị tác động mạnh mẽ của lối sống hiện đại, nên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân ở Đồng bằng Bắc Bộ cũng có một vài biểu hiện tiêu cực như: phô trương về tiền tài, danh vọng, địa vị, gây chia rẽ, bè phái, bày ra những nghi thức cầu kỳ, tốn kém làm mất đi tính thiêng liêng và giá trị vĕn hóa của tín ngưỡng, nặng nề về mê tín,... Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân Đồng bằng Bắc Bộ thông qua triết lý nhân sinh ẩn dấu trong các hoạt động thờ cúng, từ đó làm rõ vai trò của nó trong giáo dục gia đình, qua đó góp phần vào việc gìn giữ và phát huy những giá trị đạo đức quý báu trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân ở Đồng bằng Bắc Bộ là vấn đề vô cùng cần thiết. 2. TÍN NGƯỠNG, NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN 2.1. Quan niệm về tín ngưỡng Tín ngưỡng là một hiện tượng lịch sử thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Tùy theo cách tiếp cận, mục đích nghiên cứu khác nhau, mà cách hiểu về tín ngưỡng cũng khác nhau: Chủ nghĩa duy tâm khách quan (với đại biểu là Platôn, Hêghen) cho rằng, tín ngưỡng, tôn giáo là một sức mạnh kỳ bí thuộc "tinh thần" tồn tại vĩnh hằng, là cái chủ yếu đem lại sinh khí cho con người. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan (đại biểu là Beccoly, Hium) lại cho rằng, tín ngưỡng là thuộc tính vốn có trong ý thức của con người, là sản phẩm mang tính nội sinh của ý thức, tồn tại không lệ thuộc vào hiện thực khách quan. Như vậy, chủ nghĩa duy tâm tư biện đã thần bí hóa hiện tượng tín ngưỡng, không thấy được mối quan hệ giữa con người với thế giới hiện thực, không thấy được mặt xã hội của tín ngưỡng. Bàn về tín ngưỡng, C. Mác viết: "Đời sống xã hội, về thực chất là có tính thực tiễn. Tất cả những sự thần bí đang đưa lý luận đến chủ nghĩa thần bí, đều được giải đáp một cách hợp lý trong thực tiễn của con người và trong sự hiểu biết thực tiễn ấy" [4]. Theo quan điểm của C. Mác, tín ngưỡng về bản chất không phải là sản phẩm của thần thánh, siêu nhiên, thần bí, mà là sản phẩm của xã hội, một hiện tượng xã hội, không tách rời xã hội và mang bản chất xã hội. Tín ngưỡng là hiện tượng thuộc đời sống tinh thần của xã hội, chịu sự quy định của đời sống vật chất. Đặng Nghiêm Vạn xem "tín ngưỡng là một yếu tố chính của tôn giáo, quy định sức mạnh của tôn giáo đó với cộng đồng" [6]. Nguyễn Chính thì cho: Tín ngưỡng là tín ngưỡng tâm linh, vì tín ngưỡng tâm linh là hạt nhân của tín ngưỡng tôn giáo. Đó là niềm tin, sự trông cậy và yêu mến một thế giới siêu nghiệm mà con người với hình nghiệm và tri thức đã có chưa lý giải được [2]. Kế thừa các quan niệm đó, chúng tôi đưa ra quan niệm về tín ngưỡng như sau: Tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã hội, là một yếu tố thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần, là hệ quả của các quan hệ xã hội được hình thành trong quá trình lịch sử - vĕn hóa, là sự biểu hiện niềm tin dưới dạng tâm lý xã hội vào cái thiêng liêng, thông qua hệ thống lễ nghi thờ cúng của con người và cộng đồng người trong xã hội. Quan niệm này đã đề cập đến tín ngưỡng với nĕm đặc trưng cơ bản sau: (1) Tín ngưỡng luôn gắn liền với đời sống tinh thần xã hội. (2) Tín ngưỡng là kết quả của sự hình thành và phát triển các quan hệ xã hội, nó có tác động trở lại các quan hệ xã hội đó. (3) Tín ngưỡng là phương thức biểu hiện niềm tin của con người vào cái thiêng liêng, biểu hiện sự bất lực của họ trước sức mạnh thống trị của lực lượng tự nhiên và xã hội. (4) Tín ngưỡng là một hiện tượng lịch sử - vĕn hóa. (5) Tín ngưỡng là một bộ phận ý thức xã hội, nó tồn tại trong mối quan hệ với tôn giáo, vĕn hóa, ngôn ngữ, triết học, lịch sử, nghệ thuật, khoa học, chính trị,... 2.2. Nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên Tổ tiên là khái niệm dùng để chỉ những người có cùng huyết thống, đã mất như kỵ, cụ, ông, bà, cha, mẹ,... là những người có công sinh thành và nuôi dưỡng, có ảnh hưởng lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của các thế hệ con cháu. Tổ tiên trong xã hội nguyên thủy có nguồn gốc là tổ tiên tô-tem trong tô-tem giáo của thị tộc. Từ tổ tiên tô-tem chuyển sang tổ tiên người thực là quá trình chuyển từ chế độ thị tộc mẫu hệ sang chế độ thị tộc phụ hệ. Tổ tiên tô-tem giáo trong thời kỳ thị tộc mẫu hệ là những vật trong thiên nhiên được thần thánh hóa, được coi là tô-tem (vật tổ) của thị tộc, là các vật thiêng và các thần che chở của gia đình thị tộc. Thời kỳ thị tộc phụ hệ, tổ tiên là những người đứng đầu thị tộc đầy quyền uy. Khi họ mất, thì những biểu tượng về họ là ý niệm về linh hồn người chết; thần che chở của gia đình thị tộc. Đó là những yếu tố chính tạo nên biểu tượng về tổ tiên được thờ cúng. Cùng với quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, khái niệm tổ tiên cũng có sự biến đổi. Tổ tiên không còn bó hẹp trong phạm vi huyết thống 112 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019 (gia đình, họ tộc,...), mà đã mở rộng ra trong phạm vi cộng đồng, xã hội. Ở Việt Nam, vua Hùng được xem là ông Tổ của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ và cũng là ông Tổ chung của 54 dân tộc anh em. Là người có công khai quốc, được thờ ở Đền Hùng - Phú Thọ, Phùng Hưng được nhân dân Việt Nam suy tôn là "Bố Cái đại vương". Trần Quốc Tuấn, có công đánh giặc giữ nước, được tôn làm "cha" của muôn dân, được thờ ở Kiếp Bạc - Hải Dương và nhiều nơi khác. Tổ tiên còn là người có công truyền nghề, tạo dựng cuộc sống hiện tại cho con cháu, được tôn thành các "tổ sư", "nghệ tổ",.... Thờ cúng là hoạt động có ý thức của con người, là tổng thể phức hợp những yếu tố: ý thức về tổ tiên, biểu tượng về tổ tiên và lễ nghi thờ cúng trong không gian thờ cúng. Thờ là yếu tố thuộc ý thức về tổ tiên, là tâm linh, tình cảm hướng về cội nguồn của con cháu. Thờ tổ tiên là sự thể hiện lòng thành kính, biết ơn, tưởng nhớ đến tổ tiên, đồng thời, cũng là sự thể hiện niềm tin vào sự che chở, bảo hộ, trợ giúp của tổ tiên. Cơ sở của sự hình thành ý thức về tổ tiên là niềm tin về linh hồn bất tử, tổ tiên tuy đã chết, song linh hồn vẫn sống, thường lui tới gia đình và ngự trên bàn thờ. Thờ và cúng là hai yếu tố tác động qua lại, thống nhất với nhau trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Sự "thờ", "tôn thờ" chính là nội dung, còn hoạt động "cúng" là hình thức biểu đạt của nội dung thờ cúng. Ý thức tôn thờ, thành kính, biết ơn, tưởng nhớ, hy vọng sự trợ giúp, tránh sự trừng phạt của tổ tiên là nội dung cốt lõi của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Thờ cúng tổ tiên là hoạt động có ý thức của con người, là tổng thể phức hợp của ý thức về tổ tiên, biểu tượng về tổ tiên và nghi lễ thờ phụng. Như vậy, có thể xem nguyên nhân sâu xa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là sức sản xuất hết sức thấp kém của thời nguyên thủy. Tính hạn chế của lực lượng sản xuất kéo theo sự hạn chế trong quan hệ kép giữa con người với tự nhiên và giữa con người với nhau trong xã hội. C. Mác cho rằng, tính chất hạn chế thực tế đó đã phản ánh vào trong những tôn giáo cổ đại và vào trong tín ngưỡng của nhân dân, thể hiện sự bất lực trước thế giới hiện thực. Nguyên nhân trực tiếp mang tính xã hội của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là sự phân hóa trong xã hội thị tộc phụ quyền, dẫn tới việc đề cao vai trò của người đứng đầu gia đình - thị tộc. Những người này, bằng uy tín của mình đã củng cố và thiêng liêng hóa sự thờ cúng tổ tiên đã có manh nha trong thời kỳ thị tộc mẫu quyền. Trong xã hội có giai cấp, sự áp bức bóc lột giai cấp, sự tù túng, hạn hẹp không có lối thoát hiện thực cũng là nguyên nhân xã hội quan trọng làm nảy sinh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Qua phân tích cơ sở xã hội nảy sinh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong lịch sử, chúng ta có thể hiểu bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân Đồng bằng Bắc Bộ như sau: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân Đồng bằng Bắc Bộ là một bộ phận của ý thức xã hội, là một loại hình tín ngưỡng dân gian được hình thành từ thời nguyên thủy với niềm tin thiêng liêng rằng tổ tiên đã chết sẽ che chở, phù giúp cho con cháu, được thể hiện thông qua lễ nghi thờ phụng. Nó là sự phản ánh hoang đường quyền hành của người đứng đầu thị tộc phụ hệ, gia đình phụ quyền được duy trì và phát triển trong xã hội có giai cấp sau này, là sự biết ơn, tưởng nhớ và tôn thờ những người có công sinh thành, tạo dựng, bảo vệ cuộc sống như kỵ, cụ, ông, bà, cha mẹ, tổ sư, tổ nghề, Thành Hoàng làng, Tổ nước,... Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân Đồng bằng Bắc Bộ, xét về cấp độ phản ánh chỉ là cấp độ kinh nghiệm mang tính trực tiếp, cảm tính, linh cảm,... Trình độ phản ánh chỉ dừng ở mức độ ý thức thông thường và tâm lý xã hội. Các đặc trưng khác của tôn giáo tuy có, nhưng ở mức độ mờ nhạt. Các bài cúng tổ tiên chưa phải là kinh sách tôn giáo; chủ lễ cúng là người gia trưởng, không phải là giáo sĩ chuyên nghiệp, nghi lễ thờ cúng được thực hiện một cách tự giác, tùy thuộc vào hoàn cảnh của mỗi gia đình, dòng họ,... Thờ cúng tổ tiên của người dân Đồng bằng Bắc Bộ thể hiện quan niệm về bản thể, nhân sinh rằng, có sự tiếp nối liên tục của các thế hệ, rằng sự sống là bất diệt. Chết là sự bắt đầu của chu kỳ sinh mới. 3. NHÂN SINH QUAN VÀ ĐẶC ĐIỂM NHÂN SINH QUAN NGƯỜI VIỆT Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ 3.1. Nhân sinh quan là gì? Có nhiều cách hiểu khác nhau về nhân sinh quan: Theo cách hiểu thông thường: “Nhân” là người, “Sinh” là sống, “Quan” là quan điểm, quan niệm, cách nhìn nhận. Nhân sinh quan là quan niệm về cuộc sống con người bao gồm: lẽ sống, mục đích, ý nghĩa, giá trị cuộc sống. Con người ở trong thế giới như thế nào, vai trò, vị trí của con người ra sao?. Giáo trình triết học Mác - Lênin của Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005) cũng nêu rõ: “Những vấn đề triết học về con người là một nội dung lớn trong lịch sử triết học nhân loại. Đó là những vấn đề: Con người là gì? bản tính, bản chất con người? mối quan hệ giữa con người với thế giới? con người có thể làm gì để giải phóng mình, đạt tới tự do?,... Đây cũng LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC 113Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019 chính là nội dung cơ bản của nhân sinh quan - một nội dung cấu thành thế giới quan triết học” [1]. Cách diễn đạt tuy khác nhau, song tựu chung lại các quan niệm đều khẳng định: Nhân sinh quan là một phạm trù dùng để chỉ những quan niệm, quan điểm mang tính định hướng của con người về mối quan hệ của họ với gia đình, xã hội và môi trường tự nhiên. Có nhiều cách phân chia các loại hình của nhân sinh quan. Có thể phân chia từ góc độ nhân sinh quan cá nhân hay nhân sinh quan cộng đồng, có thể phân chia dựa trên vai trò của nhân sinh quan (tích cực và tiêu cực), hoặc có thể phân chia theo trình độ nhận thức và tư duy của con người. 3.2. Đặc điểm nhân sinh quan người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ Thứ nhất, nhân sinh quan người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ thường gắn bó chặt chẽ với vận mệnh dân tộc, triết lý nhân sinh của họ đều đi đến giải đáp những vấn nạn mà họ gặp phải trên con đường dựng và giữ nước. Thứ hai, nhân sinh quan người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ luôn gắn liền với các điều kiện sinh tồn của họ, được triển khai trong một hệ thống hoàn chỉnh các mối quan hệ: xã hội, gia đình, dòng tộc, Thứ ba, nhân sinh quan người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ thường được biểu hiện qua hai dòng vĕn hóa: vĕn hóa dân gian (Folklore) và vĕn hóa bác học hàn lâm (Academic). Cả hai dòng vĕn hóa này đều đan xen, thẩm thấu, tác động lẫn nhau, tạo nên bản sắc riêng, độc đáo cho nhân sinh quan người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ. Thứ tư, thái độ trọng nghĩa - tình là truyền thống của vĕn hóa Việt Nam, nó được phản ánh khá đậm nét trong nhân sinh quan người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ. Thứ nĕm, nằm giữa hai nền vĕn minh Trung - Ấn, nên trong quá trình phát triển, nhân sinh quan người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ đã tiếp thu và cải biến nhiều yếu tố trong triết lý nhân sinh của hai nền vĕn hóa đó, thông qua hệ thống các học thuyết triết học của Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo. 4. TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI DÂN ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NHÂN SINH QUAN Đồng bằng Bắc Bộ là một trong sáu vùng vĕn hóa của cả nước. Đây là vùng vĕn hóa độc đáo và đặc sắc trong sự phong phú đa dạng của nền vĕn hóa Việt Nam. Đồng bằng Bắc Bộ được kiến tạo nên bởi hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, bao gồm phần bằng, trũng của các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hà Tây, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, một phần Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh và Vĩnh Phúc. Xét cả về kinh tế, xã hội và tinh thần, làng người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ có cấu trúc chặt chẽ, là những đơn vị kinh tế - xã hội - quân sự - vĕn hóa hoàn chỉnh. Làng là tập hợp của những họ, lấy gia đình hạt nhân làm nền tảng. Bao quanh không gian tụ cư của xóm làng là lũy tre xanh, có nơi có hào sâu bao bọc, có chức nĕng của một công trình quân sự bảo vệ an ninh cho xóm làng. Về tổ chức xã hội, ngoài những tổ chức và chức danh do Nhà nước quy định, mỗi làng còn có nhiều những tổ chức, những hội tự nguyện khác, đáp ứng những nhu cầu về tâm linh và thân phận khác nhau trong cộng đồng. Có hội được thành lập trên nguyên tắc theo lứa tuổi, có hội theo nghề nghiệp, có hội theo tín ngưỡng, theo giới tính,... Đình, chùa, nhà thờ, am, miếu, từ đường,... là những trung tâm thờ tự công cộng nhằm thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo và tâm linh, của từng nhóm đối tượng, nhiều khi vượt ra khỏi phạm vi không gian xóm làng. Với tư cách là một đơn vị kinh tế - xã hội và vĕn hóa hoàn chỉnh, làng xã Đồng bằng Bắc Bộ có vai trò hết sức quan trọng trong việc nuôi dưỡng và gìn giữ những giá trị vĕn hóa truyền thống, trong đó có ý thức về cội nguồn, lòng biết ơn tổ tiên - những người có công tạo dựng và bảo vệ cuộc sống của con người, gia đình, làng, nước. Và đây cũng chính là cơ sở xã hội nảy sinh nhân sinh quan trong hoạt động tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân. 4.1. Nhân sinh quan trong quan niệm “Đạo hiếu” của người dân Đồng bằng Bắc Bộ Do ảnh hưởng sâu đậm bởi nền vĕn hóa của Trung Quốc và Ấn Độ (mà chủ yếu là tiếp nhận và vận dụng quan điểm của Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo), người dân ở Đồng bằng Bắc Bộ rất chú trọng tới việc xây dựng gia đình theo chế độ tông pháp - lấy gia đình, dòng họ là đơn vị cơ sở của xã hội. Trong gia đình, dòng họ, theo Nho giáo, điều cốt lõi là con người phải có hiếu. Hiếu là biểu hiện của nhân. Hiếu còn gắn với trung, là nguồn gốc của trung. Trước đây, trong các triều đại phong kiến Việt Nam chữ hiếu luôn được đề cao. Hiếu được xem như một chuẩn mực đạo đức xã hội và cũng là thước đo lòng trung thành đối với vua. Chữ hiếu đã được Nhà nước phong kiến pháp chế hóa, chính sách hóa. Trong sách "Nhị thập tứ hiếu" được in và truyền bá rộng rãi thời Nguyễn có nêu ra nhiều tấm gương hiếu đễ như: Nguyễn Huy Đức, Phan Hữu Tự,... Với người dân Đồng bằng Bắc Bộ, hiếu kính với cha mẹ còn là giá trị tinh thần, là nội dung đạo đức trong gia đình truyền thống. Hiếu kính với cha mẹ không phải chỉ là sự thể hiện tình cảm, lòng biết ơn, mà còn là trách nhiệm, nghĩa vụ của đạo làm 114 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019 con. Hiếu với tổ tiên, ông bà, cha mẹ,... trước hết phải cư xử đúng đắn với người đang sống. Đạo hiếu nhắc nhở con cháu không những chỉ hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, mà phải hiếu đễ với anh, chị em trong gia tộc. Phải xem "anh em như thể chân tay" do vậy "tay đứt ruột xót", "một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ". Trong nhà, anh em phải biết "kính trên nhường dưới", anh, chị phải biết thương yêu, nhường nhịn các em, gương mẫu trước lời nói và việc làm. Nếu không may bố, mẹ mất sớm phải thay cha (nếu là anh cả) và thay mẹ (nếu là chị cả) nuôi dạy các em nên người. Người anh trưởng được quyền thừa kế hương hỏa và có trách nhiệm chính duy trì việc cúng giỗ. Hàng nĕm, đến ngày giỗ cha, mẹ, các em khi đã có tư thất, đến nhà trưởng góp giỗ, "giầu một bó, khó một nén". Ngày giỗ, vì thế, chẳng những có ý nghĩa thiêng liêng về mặt tâm linh, thể