Tính dung hợp trong văn hóa truyền thống Đà Nẵng

1. Tính dung hợp: khái niệm, nguồn gốc Sự tồn tại trong cuộc đời có một điều thật đặc biệt, rằng chúng ta sẽ không bao giờ hoàn thiện nếu chúng ta đơn độc, lẻ loi. Như Thomas Friedman đã viết: “Đứng một mình, bạn không thể nào là một con người hoàn chỉnh. Một mình bạn có thể là một người giàu có. Một mình, bạn có thể là một nhà thông thái. Nhưng bạn không bao giờ là người hoàn chỉnh nếu đứng một mình”.1 Vậy nên, sự liên hệ giữa cá thể này với cá thể khác, giữa cộng đồng này với cộng đồng khác là một quy luật tất yếu. Quy luật này đã thể hiện được tính đúng đắn của mình trong tất cả các lĩnh vực, bao gồm cả văn hóa. Đối với văn hóa Việt Nam nói chung, văn hóa Đà Nẵng nói riêng, trong quá trình vận động để tồn tại cũng đã tuân thủ theo đúng quy luật tất yếu của văn hóa nhân loại. Lịch sử phát triển của Đà Nẵng đã cho thấy lúc nào cũng có nhiều người cùng tham gia vào quá trình sáng lập ra nó với tư cách là một chỉnh thể hoàn thiện. Những người ấy, có thể đến từ những quốc gia rất xa xôi nhưng cũng có thể là rất gần. Nhưng dù xa hay gần, dù lạ hay quen thì việc người này cùng tồn tại và phát triển bên cạnh người kia, tất yếu đòi hỏi phải có sự hòa hợp và tôn trọng lẫn nhau. Theo cách lập luận này, chúng tôi cho rằng văn hóa Đà Nẵng có tính dung hợp cao.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính dung hợp trong văn hóa truyền thống Đà Nẵng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
46 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi 1. Tính dung hợp: khái niệm, nguồn gốc Sự tồn tại trong cuộc đời có một điều thật đặc biệt, rằng chúng ta sẽ không bao giờ hoàn thiện nếu chúng ta đơn độc, lẻ loi. Như Thomas Friedman đã viết: “Đứng một mình, bạn không thể nào là một con người hoàn chỉnh. Một mình bạn có thể là một người giàu có. Một mình, bạn có thể là một nhà thông thái. Nhưng bạn không bao giờ là người hoàn chỉnh nếu đứng một mình”.1 Vậy nên, sự liên hệ giữa cá thể này với cá thể khác, giữa cộng đồng này với cộng đồng khác là một quy luật tất yếu. Quy luật này đã thể hiện được tính đúng đắn của mình trong tất cả các lĩnh vực, bao gồm cả văn hóa. Đối với văn hóa Việt Nam nói chung, văn hóa Đà Nẵng nói riêng, trong quá trình vận động để tồn tại cũng đã tuân thủ theo đúng quy luật tất yếu của văn hóa nhân loại. Lịch sử phát triển của Đà Nẵng đã cho thấy lúc nào cũng có nhiều người cùng tham gia vào quá trình sáng lập ra nó với tư cách là một chỉnh thể hoàn thiện. Những người ấy, có thể đến từ những quốc gia rất xa xôi nhưng cũng có thể là rất gần. Nhưng dù xa hay gần, dù lạ hay quen thì việc người này cùng tồn tại và phát triển bên cạnh người kia, tất yếu đòi hỏi phải có sự hòa hợp và tôn trọng lẫn nhau. Theo cách lập luận này, chúng tôi cho rằng văn hóa Đà Nẵng có tính dung hợp cao. Theo Từ điển tiếng Việt thì “Dung hợp” có nghĩa là “hòa lẫn vào nhau để hợp thành một thể thống nhất”, nó không khác mấy với “Dung hòa”: “làm cho có sự nhân nhượng lẫn nhau để đạt được những điểm chung, trở thành không còn đối lập nhau nữa”2, và lại càng giống với “Bao dung”: “Tính bao dung là phẩm chất của con người biết dung nạp những gì khác mình, có lòng TÍNH DUNG HỢP TRONG VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐÀ NẴNG ? PHạM THị TÚ TRINH* * ThS., Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng. vị tha để bỏ qua và châm chước các lỗi lầm của người khác, với cái nhìn thông thoáng và tấm lòng rộng mở trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với xã hội, và con người với thế giới tự nhiên”.3 Trong văn hóa, tính dung hợp được thể hiện ở việc tôn trọng các giá trị văn hóa khác biệt, biết tiếp nhận và biến đổi những giá trị văn hóa ngoại sinh trên cơ sở có chọn lọc sao cho phù hợp với những giá trị văn hóa nội sinh để làm phong phú và sâu sắc hơn nền văn hóa của mình. Vậy, tính dung hợp của văn hóa Đà Nẵng được hình thành và có những biểu hiện như thế nào? Nguồn gốc thứ nhất hình thành nên tính dung hợp trong văn hóa Đà Nẵng chính là nhờ sự kế thừa từ những giá trị đặc trưng bản sắc của văn hóa Việt Nam truyền thống. Thông qua chủ thể chuyển tải chính là những tiền nhân vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh, đặc trưng tính cách này đã được tận dụng và phát huy để trợ lực cho con người khi sinh sống ở vùng đất mới. Nguồn gốc thứ hai chính là nhờ vị thế địa văn hóa của Đà Nẵng. Vị thế này thể hiện ở chỗ: Đà Nẵng 47Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi chính là tâm điểm của mọi sự gặp gỡ và giao lưu. Trên thế đứng đó, đất và người Đà Nẵng sẽ không tránh khỏi những va đập và biến cố của những cuộc chạm mặt mà cái tương đồng thì rất ít, cái khác biệt thì lại rất nhiều. Hơn thế nữa, với đặc điểm lưng tựa núi mặt hướng biển, cùng chung sống với biển và bị biển chi phối đã tạo cho người Đà Nẵng một nền văn hóa cửa biển:“Người cửa biển “ăn sóng nói gió”, quen với thế giới biến đổi, không sợ sự biến đổi, tò mò và ham muốn điều mới lạ”.4 Tuy nhiên, những tiền nhân Đà Nẵng dù có yêu thích sự thay đổi bao nhiêu chăng nữa mà những cái mới, cái khác đó không xuất hiện thì mọi chuyện vẫn vậy. Cho nên, nguồn gốc thứ ba góp phần quan trọng vào việc định hình nên tính dung hợp trong văn hóa Đà Nẵng chính là bối cảnh lịch sử - xã hội của Đà Nẵng. Đà Nẵng trong lịch sử từng kinh qua rất nhiều vị thế khác nhau như làm “tiền cảng” của Hội An, tiếp đến là hải cảng quốc tế duy nhất của nước ta (đầu thế kỷ XX), và cao hơn nữa là một tiền đồn quân sự bảo vệ sự an nguy của kinh đô Phú Xuân - Huế, thay mặt toàn dân tộc là vùng đất đầu tiên đứng lên chống lại các cuộc chiến xâm lược của thực dân đế quốc phương Tây (Pháp, Mỹ) kéo dài hơn hai thế kỷ. Để hoàn thành được các sứ mệnh này, đất và người Đà Nẵng không chỉ “trung dũng, kiên cường” mà còn cần phải thông minh, sáng tạo, linh hoạt và dung hợp trong ngoại giao, trong chính trị và kể cả trong văn hóa thì mới có thể khắc phục được những mâu thuẫn đã nảy sinh, vươn lên giành lấy chiến thắng. 2. Biểu hiện của tính dung hợp trong văn hóa Đà Nẵng 2.1. Với văn hóa Champa Tuy không phổ biến và ít điển hình bằng Quảng Nam, nhưng ở Đà Nẵng văn hóa Chăm vẫn hiện diện và tồn tại như là một chứng tích cho quá trình dung hợp, giao hòa văn hóa giữa hai dân tộc Việt - Chăm. Đầu tiên là sự ảnh hưởng trong phương thức làm kinh tế của người Chăm đến người Việt ở Đà Nẵng. Đối với người Chăm, ngoài nông nghiệp thì họ còn lấy việc buôn bán trao đổi làm nghề chính mà chủ yếu là buôn bán trên biển. Bởi vì người Chăm là dân tộc thạo thủy chiến, thạo đến mức họ trở thành những người cướp biển chuyên nghiệp. Cho nên, hoạt động ngoại thương trên biển đã sớm hình thành và phát triển ở người Chăm và sau này người Việt ở Quảng Nam đã tiếp tục truyền thống đó với nghề buôn ghe bầu nổi tiếng. Đà Nẵng lại tỏ ra phù hợp hơn với phương thức kinh tế này khi nó có lợi thế của một hải cảng giàu tiềm năng và rất được các thương gia nước ngoài ưu ái. Người Đà Nẵng còn chịu ảnh hưởng của văn hóa Chăm trong cách ăn mặc. Trong cuốn Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà (1792 - 1793) của mình, John 48 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi Barrow đã sử dụng bức tranh Một nhóm người Đàng Trong của William Alexander để minh họa. Theo mô tả của John Barrow thì có thể hình dung đó là một làng ở cửa Hàn, nay thuộc khu vực phường Nại Hiên Đông, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Trong bức tranh, chiếc váy áo nhiều tầng của người phụ nữ ngoài cùng bên trái được John Barrow viết: “Một quý bà thường mang một lúc ba, bốn chiếc áo màu sắc, dài ngắn khác nhau, chiếc ngắn nhất là nổi bật hơn cả”.5 Khi mô tả cách ăn mặc của người huyện Điện Bàn (bao gồm cả các huyện Đại Lộc, Duy Xuyên, Hội An, Hòa Vang, Đà Nẵng nay) thì Ô Châu cận lục chép: “Đàn bà mặc váy Chiêm, đàn ông dùng quạt Bắc. Để tỏ sang hèn đồ dùng chẳng vẽ phượng thì rồng, phân biệt tôn ti, quần áo chẳng tô hồng thì tía”.6 Trong hình còn có hai người đàn ông cởi trần và mặc váy kama, mà theo Maspero trong Vương quốc Champa thì y phục của người Chăm cũng mặc váy kama. Như vậy, những người đàn ông Đàng Trong này có phải là người Chăm? Hay họ là người Việt chịu ảnh hưởng phong cách ăn mặc của người Chăm? Vấn đề này đến nay vẫn không thể trả lời một cách chính xác được, nhưng điều suy luận ra là ít nhất đến cuối thế kỷ XVIII thì văn hóa Chăm vẫn có sức ảnh hưởng hay vẫn còn tồn tại ở vùng đất Đà Nẵng là sự thật không thể phủ nhận được. Sẽ là một thiếu sót rất lớn nếu nói đến sự dung hợp văn hóa Chăm của người Việt ở Quảng Nam - Đà Nẵng mà không nhắc đến sự dung hợp trong đời sống tín ngưỡng. Về phương diện này thì thái độ ứng xử của người Việt đối với người Chăm chiến bại được thể hiện khá độc đáo và kỳ lạ trong tín ngưỡng dân gian qua tục cúng tá thổ đến ngày nay cũng chưa hoàn toàn mất hẳn. Về mặt tên gọi, người Việt không còn gọi là cúng tá thổ nữa mà chỉ gọi là cúng đất. Lễ cúng thường tiến hành trong các tháng mùa xuân, tập trung nhất là tháng hai âm lịch. Trong lễ vật cúng đất của người Đà Nẵng hiện nay thì bao giờ cũng có những thực phẩm đậm chất biển như con cua (phải còn sống), mắm cái, khoai lang như sự tưởng nhớ về văn hóa ẩm thực của chủ nhân cũ vùng đất này. Thêm vào đó là tín ngưỡng thờ nữ thần Poh Yang Inư Nagar - nữ thần Xứ sở vĩ đại của người Chăm và người Việt gọi bằng cái tên được Việt hóa là Thiên Y A Na. Trong các sắc phong thần thì có khi ghi là Thiên Y A Na Diễn Phi Chúa Ngọc nên người dân thường gọi tắt là Bà Chúa Ngọc. Ở Đà Nẵng đến nay vẫn còn miếu Bà Chúa Ngọc ở thôn Phước Hưng, xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang như là chứng tích chứng minh cho sự dung hợp đó. Theo Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra, khảo sát di sản văn hóa khảo cổ học trên địa bàn Đà Nẵng do Trung tâm Quản lý Di sản văn hóa thành phố Đà Nẵng - Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Đà Nẵng phối hợp thực hiện với Viện Khảo cổ học Việt Nam thì 49Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi những di tích thuộc văn hóa Champa trên địa bàn Đà Nẵng còn lại cho đến ngay nay là khá dày, gần 20 di tích thuộc nhiều loại hình như: tháp, chùa, miếu, thành, đình, hiện vật cổ, giếng cổ Thống kê này cho thấy văn hóa của người Chăm đã hiện diện ở Đà Nẵng từ rất lâu và còn tồn tại cho đến nay là minh chứng cho sự dung hòa văn hóa trên rất nhiều lĩnh vực của cả hai dân tộc Việt - Chăm. Đỉnh cao cho sự dung hợp văn hóa Việt - Chăm đã kết tinh lại ở một biểu tượng văn hóa tiêu biểu chính là Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng. Trải qua thời gian, bảo tàng được nâng cấp và thay đổi nhiều so với ngày xưa nhưng tinh thần văn hóa Chăm thì vẫn không hề mờ nhạt. Ở đó, người ta bắt gặp được một nền văn hóa mà chủ nhân đã lùi vào quá khứ nhưng các tác phẩm bằng đá, bằng gạch ấy - tưởng như vô tri vô giác nhưng lại tự thuyết minh cho tài năng và bản lĩnh của dân tộc mình. Có thể nói, Bảo tàng Điêu khắc Chăm là một công trình kiến trúc có tính dung hợp rất cao, vì trong đó là sự gặp gỡ của tài năng một dân tộc (Chăm) - ý thức giữ gìn và nâng niu cái đẹp của một dân tộc (Pháp) - và tinh thần tôn trọng, bao dung văn hóa của một dân tộc (Việt) hòa vào với nhau để cống hiến cho nhân loại những tài sản văn hóa vô giá. 2.2. Với văn hóa Trung Hoa Trong các quốc gia đã từng xuất hiện ở Đàng Trong, Trung Hoa là nước đã có mối quan hệ từ rất sớm, và chính họ cũng là dân tộc để lại nhiều ảnh hưởng đến đời sống văn hóa của cư dân xứ này. Người Hoa đến Việt Nam vào nhiều thời điểm khác nhau và họ thường chọn cư trú ở Đàng Trong thay vì Đàng Ngoài. Trong các đợt di cư ồ ạt này, người Hoa đã đến định cư ở Hội An, Đà Nẵng (năm 1679) và phần đông họ có gốc ở phía Nam Trung Hoa như Phúc Kiến, Quảng Đông, Triều Châu, Hải Nam. Chúa Nguyễn cũng cho phép họ tập hợp, lập làng, cư trú ổn định. Thời người Hoa phát triển cực thịnh nhất cũng gắn liền với thời cực thịnh của thương cảng Hội An nên văn hóa Hoa đã ảnh hưởng mạnh mẽ ở Hội An hơn so với các vùng khác, kể cả Đà Nẵng. Phải chờ đến đầu thế kỷ XX, khi cảng Đà Nẵng bắt đầu phát triển dưới bàn tay người Pháp và con đường nước Cổ Cò nối liền Đà Nẵng - Hội An bị thiên nhiên vùi lấp, Hội An mất dần ưu thế, người Hoa mới dần dần có mặt ở Đà Nẵng nhưng số lượng vẫn không đáng kể. Như vậy, văn hóa Hoa đã ảnh hưởng không thường xuyên và có phần mờ nhạt đến con người và văn hóa Đà Nẵng từ thế kỷ XX trở về trước. Người Hoa khi sinh sống tại nước ngoài thì thường quy tụ thành các cộng đồng (đặt trên cơ sở là tình đồng hương) gọi là bang. Người Hoa khi định cư tại Đà Nẵng cũng tạo thành các bang như thế, phổ biến và tồn tại đến ngày nay thì có các bang như Phúc Kiến, Quảng Đông, Nam Hải, Hẹ, Triều Châu và tập trung sinh hoạt trong hai hội quán là Hội quán Chiêu Ứng và Hội quán Thiên Hậu Cung. Theo thời gian, người Hoa ngày càng có cuộc sống ổn định và luôn giúp đỡ cùng nhau sinh sống chan hòa với cộng đồng cư dân Đà Nẵng. Những thương nhân người Hoa có hoạt động buôn bán với người Việt là chuyện tất yếu, nhưng bên cạnh đó họ còn là những người trực tiếp giao dịch buôn bán với thương nhân phương Tây khi neo thuyền ở Đà Nẵng: “Có thể xem Hoa kiều là cái gạch nối quan trọng giữa doanh nhân Pháp và thị trường Việt Nam về cả hai mặt tiêu thụ và cung ứng”.7 Nhà Nguyễn đã có những chính sách cấm thương nhân người Việt tiếp xúc và mua bán với thương nhân phương Tây, cho nên người Pháp bắt buộc phải bắt tay với một bộ phận thương nhân Hoa kiều. Nhờ một hệ thống thương mại được tổ chức chu đáo và rộng rãi, nguồn vốn dồi dào và biết đoàn kết chặt chẽ, Hoa kiều có thể 50 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi đảm nhận một cách tốt đẹp việc phân phối hàng hóa đến tận tay người tiêu thụ dù ở hang cùng ngõ hẻm nào; và ngược lại, có thể thu mua các sản vật trong xứ một cách dễ dàng để tự xuất cảng hay cung cấp lại cho các nhà xuất cảng Pháp. Đặc biệt, trong tổ chức ngoại thương, các chúa Nguyễn đã lập các cơ quan chuyên trách khá hùng hậu, đặt ở Hội An, đó là Ty Tàu vụ đảm nhận việc vận chuyển bằng tàu, thuyền của triều đình, ấn định cùng hành thu các ngạch thuế thuộc về thuyền bè; và Ty Hành nhân chuyên về kiểm soát, cân lường và ấn định giá cả các loại hàng hóa xuất nhập cảnh. Cả hai ty này đều không có trụ sở hay chi nhánh tại Đà Nẵng, cho nên nhân viên đã không có mặt thường trực tại cảng mà chỉ làm việc trong mùa mậu dịch. Để hai cơ quan này hoạt động có hiệu quả, chúa Nguyễn đã sử dụng đông đảo các quan quản lý hay nhân viên Ty Tàu vụ có nguồn gốc là người Trung Hoa ở làng Minh Hương Hội An. Từ chức Cai tàu, Cai phủ tàu, Tri tàu đến nhân viên trực tiếp về cân đo hàng hóa tàu thuyền đều giao phó cho người Trung Hoa nắm giữ Vì hơn ai hết, thương mại là lĩnh vực mà người Tàu đã có kinh nghiệm và có thể giúp đỡ chúng ta thực hiện một cách tốt nhất. Rõ ràng, đây là một tư duy, một ứng xử rất thân thiện, thể hiện sự thu dụng rất cởi mở nhưng cũng rất thông minh của chúa Nguyễn khi biết tận dụng lợi thế của người khác để làm lợi cho ta mà không gây một bất hòa nào cả. Cho nên, mặc dù không có trụ sở hay chi nhánh tại Đà Nẵng nhưng vào mùa mậu dịch thì nhân viên của Ty Tàu vụ đều đến Đà Nẵng làm việc nên văn hóa thương mại của họ ít nhiều gì cũng ảnh hưởng rất lớn đến phong cách buôn bán, kỹ năng buôn bán của người Đà Nẵng. Như vậy, người Hoa đã cùng lúc tham gia vào hai khâu quan trọng nhất của hoạt động thương mại ở Đà Nẵng, đó vừa là những người “quản lý” nhưng cũng đồng thời là những người “bị quản lý”. Cho nên, có lúc họ trở thành những người thâu túng toàn bộ thị trường Đà Nẵng và gây nên sự phẫn nộ đối với những thương nhân người Pháp. Như vậy, chắc chắn sự thành công của người Hoa trong kinh doanh sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống phố cảng Đà Nẵng, mà đặc biệt là cư dân sống ven sông Hàn - nơi tại vị của những cửa hiệu buôn bán phồn thịnh của người Hoa. Bên cạnh đời sống kinh tế hàng ngày, sau những lúc buôn bán bận rộn thì người Hoa cũng cần có nơi chốn để sinh hoạt về mặt tinh thần, họ quay trở về với những Bang, và những Hội quán của mình. Chính trong những nếp sinh hoạt văn hóa này mà văn hóa tinh thần của người Hoa đã ảnh hưởng phần nào đến đời sống tinh thần của người Việt Đà Nẵng trong quá trình hai dân tộc cùng tụ cư tại đây. Trong Hội quán thì đời sống tinh thần của người Hoa được thể hiện rõ nhất thông qua các tín ngưỡng - lễ hội và các phong tục dân gian Nhưng điển hình nhất có thể nhắc đến chính là tín ngưỡng thờ Thiên Hậu của người Hoa. Tục thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu là một sinh hoạt tín ngưỡng mang tính khu vực, gắn liền với vùng lục địa và hải đảo Trung Hoa, theo chân người Hoa ra các vùng khác ở Đông Nam Á và Đông Á. Bà là vị nữ thần của những người làm nghề buôn bán, thông thương trên biển nên người Hoa thờ Bà cũng chính là để cầu mong được sự bình yên trên bước đường vạn dặm bôn ba xứ người, đặc biệt là sự biết ơn của họ khi Bà đã luôn kề vai sát cánh trên hành trình vượt biển gian nan khi họ đến Việt Nam, đến Đà Nẵng. Nơi thờ Bà gọi là Thiên Hậu cung hoặc là chùa Bà, tọa lạc ở 407 Phan Châu Trinh, thành phố Đà Nẵng. Không chỉ là nơi của riêng những người Hoa tụ tập về đây sinh hoạt văn hóa mà chùa Bà/ Thiên Hậu cung còn là nơi khấn lễ cầu an, cầu lộc của rất nhiều người Việt Đà Nẵng, đông nhất là nữ giới. Người Việt gọi Bà Thiên Hậu là Mẹ, trong khấn lễ cũng kính cẩn hô là Thánh Mẫu. Để thông linh với Thánh Mẫu, người Việt cũng thể theo cách thức của người Hoa. Hiện chùa Bà/Thiên Hậu cung có thủ tự là một phụ nữ Việt, và một số danh thần Hoa được Việt hóa theo cách gọi của đạo Mẫu Việt như Phước Đức Chính Thần thì chuyển thành Quan Hoàng Phúc; Mã Đầu Tướng Quân thì gọi là Cậu lớn ngoại cảnh hay Thần Tài thì gọi là Quan Hoàng Mười Hoặc trong cách bài trí thờ tự, mặc dù là Hội quán của người Hoa nhưng không nhất thiết mọi việc đều phải tuân thủ theo nghi thức truyền thống người Hoa mà có sự linh hoạt, hòa đồng. Ngoại trừ ban thờ 51Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Nghiên cứu - Trao đổi Bà do người Hoa sắp bày thì các ban thờ khác có thể do người Việt sắp đặt như ban thờ Quan Công, ban thờ Thần Tài, ban thờ Hội đồng theo cách thức tín ngưỡng của người Việt. Như vậy, vẫn lối hành xử rất khôn khéo, người Việt dù ở đâu đi nữa, khi tiếp nhận bất kỳ một dấu vết văn hóa nào của người khác thì cũng rất sáng tạo và linh hoạt. Họ luôn biết cách dung hợp làm sao để vừa thâu hóa được những giá trị tốt đẹp trong văn hóa của người khác nhưng không làm mâu thuẫn với những giá trị văn hóa nội sinh của dân tộc. Đối với tín ngưỡng thờ Thiên Hậu, bằng cách này hay cách khác, dù là nhỏ thôi nhưng dấu ấn Việt vẫn luôn đi cùng với dấu ấn Hoa chứ không bao giờ có chuyện văn hóa Hoa độc tôn và chi phối. Đây chính là cái tài tình nhất của người Việt nói chung, và cũng là cái tài khéo của người Đà Nẵng trong việc tiếp nhận, dung hòa văn hóa Hoa. 2.3. Với văn hóa phương Tây Khi dong buồm phiêu lưu trên vùng biển giữa Mã Lai và Hoa Nam, thuyền trưởng Antonio Da Faria - người Bồ Đào Nha đã khám phá ra Đà Nẵng. Sau người Bồ Đào Nha thì Anh là nước phương Tây thứ hai đến với Đàng Trong thông qua những chuyến ghé thăm của thương nhân Peacock (năm 1613), Thomas Bowyear (năm 1695), Chapman (năm 1778) Cùng thời gian này, Đàng Trong nói chung, Đà Nẵng nói riêng là địa điểm thu hút rất mạnh mẽ đối với nước Pháp, và Pháp cũng nhận được sự ưu ái của chính quyền Đàng Trong hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Nước Pháp là quốc gia phương Tây đầu tiên được chính thức chấp thuận thông thương bằng văn bản đối với Đàng Trong. Thế nhưng, bên cạnh mục đích kinh tế, người Pháp đến Đàng Trong còn mang theo những tham vọng chính trị cho nên mối quan hệ của Pháp và Đàng Trong có phần phức tạp hơn rất nhiều so với các quốc gia phương Tây khác. Sau người Pháp thì người Mỹ cũng là một trong những dân tộc đến Đà Nẵng nhưng toàn bộ thời gian của họ chủ yếu là dành cho mục đích xâm chiếm thuộc địa nên những dấu ấn văn hóa mà họ để lại cũng khá mờ nhạt. Như vậy, có thể thấy từ thế kỷ XVI trở đi, Đà Nẵng đã trở nên rất quen thuộc đối với các nước phương Tây, gần như quốc gia nào muốn bành trướng thế lực của mình ở phương Đông cũng đều đã đôi lần đặt chân đến Đà Nẵng. Có những nước thất bại, có những nước thành công trong việc tạo dựng các mối quan hệ giao thương tại đây. Và đi liền với những chuyến thương thuyền của họ, văn hóa phương Tây đã phần nào “ở lại” và được người Đàng Trong nói chung, người Đà Nẵng nói riêng tích hợp, dung hòa vào nền văn hóa của mình. Nói về sự dung hợp văn hóa phương Tây, chúng tôi cho rằng một trong những sản phẩm văn hóa tiêu biểu nhất chính là sự ảnh hưởng, du nhập của các tôn giáo, mà đầu tiên là đạo Thiên Chúa. Thiên Chúa giáo vào Đà Nẵng từ cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII. Ban đầu, chúng tôi thắc mắc là tại sao không phải vùng đất khác mà lại là Đà Nẵng. Bởi lẽ, so với các vùng khác thì miền Bắc chính là cái nôi văn hóa của dân tộc, cũng là nơi đã từng chứng kiến sự du nhập rất thành công của nhiều tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau đến từ các quốc gia trên thế giới như Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo... Mang Thiê