Sự tinh sạch của protein rất quan trọng vì từ protein tinh sạch chúng ta có thể 
xác định được trình tự acid amin, mối liên hệ về tiến hóa giữa các protein 
trong những cá thể khác nhau và khảo sát các chức năng sinh hóa của các 
protein đó. Hơn thế nữa, việc tinh thể hóa protein chỉ có thể thực hiện với 
những protein tinh sạch và từ những tinh thể đó chúng ta sẽ biết được cấu 
trúc bậc 4 cũng như các đơn vị chức năng của protein thông qua dữ liệu chiếu 
xạ tia X.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                
18 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2370 | Lượt tải: 3
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tinh sạch protein, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tinh sạch protein 
I. Giới thiệu chung 
Sự tinh sạch của protein rất quan trọng vì từ protein tinh sạch chúng ta có thể 
xác định được trình tự acid amin, mối liên hệ về tiến hóa giữa các protein 
trong những cá thể khác nhau và khảo sát các chức năng sinh hóa của các 
protein đó. Hơn thế nữa, việc tinh thể hóa protein chỉ có thể thực hiện với 
những protein tinh sạch và từ những tinh thể đó chúng ta sẽ biết được cấu 
trúc bậc 4 cũng như các đơn vị chức năng của protein thông qua dữ liệu chiếu 
xạ tia X. 
Vì vậy, quá trình tinh sạch protein không ngừng được cải tiến để đạt được độ 
tinh sạch cao nhất nhưng nhìn chung một quá trình tinh sạch protein cũng cần 
đi qua các bước căn bản sau: 
1. Nhận biết protein mục tiêu 
2. Ly trích protein từ tế bào 
3. Thu nhận protein mục tiêu dựa trên độ hoà tan, kích thước, điện tích, và 
liên kết ái lực 
4. Phân tách protein bằng điện di trên gel 
5. Xác định trọng lượng và khối lượng của protein 
II. Nhận biết protein mục tiêu 
Kết quả của sự tinh sạch là một mẫu protein chỉ chứa đúng một loại phân tử, 
ở đây là một loại protein mà nhà sinh hóa quan tâm. Mẫu protein này chỉ là 
một phân đoạn chiếm 1% vật liệu ban đầu, vốn có thể là dịch nuôi cấy tế bào 
hay một cơ quan riêng biệt lấy của thực vật hay động vật. Để xác định được 
protein mục tiêu từ hỗn hợp protein, nhà sinh hóa cần thực hiện một thử 
nghiệm dựa vào đặc tính của protein đó. Nếu protein mục tiêu là một enzyme 
thì thử nghiệm sẽ được thực hiện dựa trên hoạt tính của enzyme đó. Cụ thể 
như với enzyme lactate dehydrogenase, một enzyme có vai trò trong việc sản 
xuất năng lượng từ glucose cũng như tổng hợp glucose từ lactate, để xác định 
enzyme này thì dựa trên phản ứng của nó trong tế bào 
Sau đó, dựa vào khả năng hấp thụ ánh sáng mạnh ở bước sóng 340nm của 
Nicotinamide adenine dinucleotide (NADH), ta có thể đo được lượng ánh 
sáng được hấp thụ ở bước sóng 340nm trong một đơn vị thời gian để xác định 
hoạt tính của enzyme lactate dehydrogenase. Trên thực tế việc tìm ra một thử 
nghiệm hiệu quả thường rất khó, nhưng nếu có được một cách thử nghiệm 
càng đặc hiệu thì quá trình tinh sạch càng hiệu quả. Tuy nhiên, để chắc chắn 
quá trình tinh sạch hoạt động tốt, chúng ta còn cần một thông số là lượng 
protein có trong hỗn hợp được thử nghiệm. Hiện nay có rất nhiều phương 
pháp phát hiện nhanh và chính xác nồng độ protein. Dựa vào 2 thông số thực 
nghiệm là hoạt tính enzyme và nồng độ protein, ta có thể xác định hoạt tính 
riêng của enzyme tức là tỉ lệ hoạt tính enzyme với hàm lượng protein có 
trong mẫu thử nghiệm. Hoạt tính riêng càng cao thì quá trình tinh sạch càng 
hiệu quả hay nói cách khác, mục tiêu của việc tinh sạch là làm tăng tối đa 
hoạt tính riêng. 
III. Ly trích protein từ tế bào 
Khi đã tìm ra thử nghiệm phù hợp và chọn được nguồn protein, chúng ta cần 
phân đoạn dịch tế bào thành nhiều phần và xác định xem phần nào chứa 
nhiều protein mục tiêu. Quá trình tìm phân đoạn mục tiêu được phát triển 
bằng sự mày mò qua từng thí nghiệm. Bước đầu tiên là phá vỡ màng tế bào, 
tạo thành hỗn hợp đồng chất. Sau đó phân đoạn hỗn hợp bằng ly tâm, dịch 
nổi chứa phân tử có trọng lượng thấp, những phân tử có trọng lượng cao hơn 
lắng xuống đáy ống ly tâm. Dịch nổi lại được ly tâm lần nữa với lực mạnh 
hơn để tạo cặn và dịch nổi mới. Tiến trình này, được gọi là ly tâm phân đoạn, 
sẽ tạo được nhiều phân đoạn khác nhau với tỉ trọng giảm dần, mỗi phân đoạn 
này chứa hàng trăm phân tử protein khác nhau, sẽ được tinh sạch sau khi đã 
qua thử nghiệm hoạt tính. Thông thường, một phân đoạn có hoạt tính cao sẽ 
là nguồn vật liệu cho các kỹ thuật tinh sạch hiệu quả. 
IV. Thu nhận protein mục tiêu dựa trên độ hoà tan, kích thước, điện 
tích, và liên kết ái lực 
Hàng ngàn protein đã được tinh sạch ở dạng có hoạt tính dựa trên những đặc 
tính căn bản như độ hòa tan, kích thước, điện tích và liên kết ái lực. Thông 
thường, một hỗn hợp protein sẽ trải qua nhiều giai đoạn phân tách, mỗi giai 
đoạn dựa trên một đặc tính nhất định, để cuối cùng là một protein tinh sạch. 
Ở mỗi bước phân tách, thử nghiệm xác định hoạt tính và xác định nồng độ 
protein đều được thực hiện. Lượng đáng kể protein tinh sạch, khoảng vài 
miligram, có thể giúp ta biết được cấu trúc không gian ba chiều và cơ chế 
phản ứng của nó. Vì vậy, sản lượng toàn phần là một điểm quan trọng của 
quá trình tinh sạch. Các kỹ thuật tinh sạch thường dùng: tủa bằng muối, màng 
bán dẫn, sắc ký. 
IV.1. Tủa bằng muối 
Ở nồng độ muối cao, phần lớn protein sẽ giảm tính hòa tan, hiện tượng này 
gọi là tủa bằng muối (salting out). Mỗi loại protein sẽ kết tủa ở một nồng độ 
muối nhất định. Vì vậy, hiện tượng tủa bởi muối có thể được dùng để phân 
đoạn protein. Ví dụ như fibrinogen tủa ở nồng độ muối ammonium sulfate 
0.8 M trong khi phải đến nồng độ 2.4 M, albumin mới kết tủa. Hiện tượng 
này được sử dụng để tăng nồng độ của một dung dịch protein loãng chứa các 
phân đoạn có hoạt tính của các bước tinh sạch trước. Nếu cần thiết, lượng 
muối có thể được loại bỏ bằng sự thẩm tách 
IV.2. Sự thẩm tách 
Protein có thể được phân tách bằng sự thẩm tách thông qua màng bán dẫn, 
chẳng hạn màng cellulose với nhiều lỗ. Những phân tử có cấu trức không 
gian nhất định lớn hơn dường kính của lỗ sẽ bị giữ lại bên trong túi thẩm 
tách, trong khi đó, những phân tử nhỏ hơn và các ion sẽ đi qua các lỗ đó ra 
ngoài túi. Kỹ thuật này dùng để loại bỏ muối hay tách những phân tử nhỏ, 
nhưng với kỹ thuật này không phân biệt được các loại protein với nhau. 
IV.3 Sắc ký 
Sắc ký là một phương pháp phân tách quan trọng nhất trong sinh học phân tử 
vì nó thích hợp với nhiều loại hợp chất và sản phẩm tinh sạch có thể được sử 
dụng ngay cho việc định lượng và định danh. 
Một hệ sắc ký gồm pha tĩnh, pha động và mẫu cần phân tách. Trong đó, tùy 
vào loại mẫu cần phân tách ta có thể lựa chọn loại sắc ký cũng như nguyên 
liệu cho pha cố định và pha di động. 
Trong tinh sạch protein, có bốn phương pháp được ứng dụng nhiều nhất là 
sắc ký lọc gel dựa vào kích thước của phân tử (size exclusion chromagraphy), 
sắc ký trao đổi ion dựa vào điện tích của phân tử (ion exchange 
chromagraphy), sắc ký ái lực dựa vào ái lực của phân tử với một loại phân tử 
khác (affinity chromagraphy) và sắc ký lỏng cao áp dựa vào kích thước của 
phân tử nhưng có độ phân giải cao nhờ vào áp suất (high pressure liquid 
chromagraphy). 
IV.3.1 Sắc ký lọc gel 
Phương pháp này tốt hơn các phương pháp trên vì nó dựa vào kích thước 
phân tử. Mẫu sẽ được nạp vào đầu một cột chứa nhiều hạt có lỗ làm từ 
polymer không tan nhưng có tính hydrate hóa cao như dextran, agarose 
(những dạng cabohydrate) hay polyacrylamide. Sephadex, Sepharose, và Bio-
gel là những loại gel phổ biến trên thị trường có sẵn những hạt có lỗ với 
đường kính chuẩn là 100µm (0.1mm). Những phân tử nhỏ có thể ở cả bên 
trong lẫn giữa các hạt, trong khi đó những phân tử lớn hơn chỉ có thể ở bên 
ngoài các hạt. Vì vậy, những phân tử có kích thước lớn trong cột sẽ chảy 
nhanh hơn và ra ngoài trước . Phân tử có kích thước trung bình, có thể thỉnh 
thoảng vào được bên trong hạt sẽ rời khỏi cột ở vị trí giữa; còn những phân tử 
nhỏ sẽ phải đi qua đoạn đường dài hơn, quanh co nên sẽ ra sau cùng. 
IV.3.2 Sắc ký trao đổi ion 
Tại bất kỳ một điểm pH nào trừ điểm đẳng điện, các protein đều có mang một 
điện tích tương ứng với điểm pH đó. Dựa vào điện tích thực của chúng tại 
một điểm pH nhất định, ta có thể phân tách hỗn hợp protein. Phương pháp 
này gọi là phương pháp sắc ký trao đổi ion. Trong phương pháp này, pha tĩnh 
là những hạt mang sẵn một điện tích nhất định, những hạt này sẽ tương tác 
với các phân tử (protein) mang điện tích trái dấu với chúng. Cụ thể, nếu hạt 
mang điện âm (như cột carboxymethyl-cellulose (CM-cellulose)), tiến trình 
được gọi là sắc ký trao đổi ion dương, thì sẽ tương tác với những phân tử 
mang điện tích dương. Ngược lại, nếu hạt mang điện tích dương (như cột 
diethylaminoethyl-cellulose (DEAE-cellulose)), gọi là sắc ký trao đổi ion âm, 
thì tương tác với phân tử mang điện tích âm. Vì thế, những protein cùng dấu 
với cột sẽ chạy ra khỏi cột trong khi những protein trái dấu bị giữ lại cột. Để 
phóng thích những protein này, ta tăng nồng độ ion của pha động, những ion 
này sẽ thế phân tử protein tương tác với các hạt mang điện tích. Ví dụ, trong 
sắc ký trao đổi ion dương, ta thêm muối natri clorua hay muối khác trong 
dung dịch tách giải bởi vì ion natri sẽ tranh bám vào cột với các protein có 
điện tích dương, do đó, những protein mang điện tích dương được phóng 
thích ra ngoài cột lần lượt theo độ lớn về điện tích. 
Hình 1: minh họa sắc ký trao đổi ion 
 Hình 2: minh họa cơ chế giữa protein trong hệ sắc ký trao đổi ion 
(a) Những hạt mang điện tích dương sẽ trao đổi ion âm với dung dịch đệm. 
Protein tích điện âm cũng ion dương tương tác với nó 
(b) Khi protein gắn với hạt, protein thay thế những ion âm tương tác với hạt 
cũng như hạt thay thế những ion dương tương tác với protein 
IV.3.3 Sắc ký ái lực 
Đây là một phương pháp rất hiệu quả và được ứng dụng rộng rãi trong việc 
tinh sạch protein. Kỹ thuật này dựa trên ái lực cao của nhiều protein với 
những nhóm hóa học chuyên biệt. Ví dụ, concanavalin A, một loại protein 
thực vật, có thể được tinh sạch khi cho qua cột mang những phân tử glucose 
bằng liên kết cộng hóa trị. Concanavalin A gắn vào cột bởi vì nó có ái lực cao 
với glucose, trong khi đó những protein khác thì không. Concanavalin A có 
thể được tách giải khỏi cột khi ta cho thêm dung dịch glucose đậm đặc vào. 
Phân tử đường trong dung dịch sẽ gắn với Concanavalin A thay thế những 
phân tử glucose nối với cột. 
Hình 3: minh họa cho cơ chế tinh sạch Concanavalin A bằng sắc ký ái lực 
Sắc ký ái lực còn là một công cụ hữu hiệu trong việc tách các yếu tố phiên 
mã, những protein điều hòa sự biểu hiện gen thông qua việc gắn đặc hiệu với 
trình tự DNA. Hỗn hợp protein thấm qua cột có chứa những trình tự DNA 
đặc hiệu được gắn vào thể mang; những protein có ái lực cao với trình tự 
DNA sẽ bắt vào các trình tự và được giữ lại. Trong thí dụ này, yếu tố phiên 
mã sẽ được phóng thích khi rửa cột với dung dịch có hàm lượng muối cao. 
Ngoài ra, hiện nay người ta dựa vào tính đặc hiệu giữa kháng nguyên và 
kháng thể để tinh sạch kháng nguyên hay kháng thể. Nhìn chung, sắc ký ái 
lực có thể được dùng để tách một protein vốn có khả năng nhận biết một 
nhóm X bằng nối cộng hóa với nhóm này hay những chất dẫn xuất của nó 
được gắn trên một cái cột, sau đó nạp hỗn hợp protein vào cột, cột này sẽ 
được rửa lại để loại bỏ những protein không tạo được nối, cuối cùng là tách 
giải protein mục tiêu bằng dung dịch X với nồng độ cao hay thay đổi điều 
kiện để làm giảm lực liên kết. Sắc ký ái lực là phương pháp tinh sạch hiệu 
quả nhất khi tương tác giữa protein và phân tử được dùng như mồi bắt protein 
có độ chuyên biệt cao. 
IV.3. Sắc ký lỏng cao áp 
Kỹ thuật sắc ký lỏng cao áp là một dạng mở rộng của kỹ thuật sắc ký cột có 
khả năng phân tách protein được cải thiện đáng kể. Bản thân vật liệu tạo cột 
vốn đã có sự phân chia rõ ràng và như thế sẽ có nhiều vị trí tương tác dẫn đến 
khả năng phân tách được tăng lên đáng kể. Bởi vì cột được làm từ vật liệu 
mịn hơn nên phải có một áp lực tác động lên cột để có được một tốc độ chảy 
thích hợp. Kết quả thực có sự phân giải cao và phân tách nhanh. 
 V. Phân tách protein bằng điện di trên gel 
Để đánh giá quá trình tinh sạch protein có hiệu quả hay không, ngoài cách 
xác định hoạt tính đặc trưng của protein có tăng lên sau mỗi bước tinh sạch, 
còn một cách là làm hiện hình các protein hiện diện trong mẫu sau mỗi bước; 
điều này được thực hiện nhờ kỹ thuật điện di. 
V.1Điện di một chiều 
Một phân tử có mang điện tích sẽ di chuyển trong điện trường. Hiện tượng 
này, được đặt tên là điện di, giúp hướng tới một kỹ thuật rất mạnh để phân 
tách protein và các đại phân tử khác như DNA và RNA. Vận tốc di chuyển 
(v) của một protein (hay bất kỳ phân tử nào) trong điện trường phụ thuộc vào 
lực điện trường (E), điện tích thực của protein (z) và hệ số ma sát (f) 
Lực điện Ez kéo phân tử mang điện tích tới điện cực trái dấu bị cản trở bởi 
lực kéo của độ nhớt fv tăng lên do sự ma sát giữa phân tử đang chuyển động 
với môi trường. Lực ma sát phụ thuộc vào cả khối lượng, hình dạng của phân 
tử đang di chuyển lẫn độ nhớt (η) của môi trường. Với một khối cầu có bán 
kính là r, ta có 
Điện di luôn được thực hiện trên gel (hay trên vật thể rắn như giấy) bởi vì gel 
giống như một cái ray phân tử sẽ làm tăng sự phân tách. Những phân tử nhỏ 
hơn kích thước lỗ gel sẽ có thể di chuyển xuyên qua gel, trong khi đó những 
phân tử lớn hơn lỗ gel thì gần như không di chuyển. Những phân tử có kích 
thước trung bình di chuyển trong gel với nhiều vận tốc khác nhau. điện di 
được thực hiện trên một bảng polyacrylamide mỏng, thẳng đứng. Hướng của 
dòng điện từ trên xuống. 
Gel polyacrylamide, được tạo thành từ sự polymer hóa acrylamide và sự liên 
kết chéo của methylenebisacrylamide, được chọn làm môi trường cho điện di 
vì nó có tính trơ về mặt hóa học và được tạo hình nhanh chóng. Điện di là 
một cách lọc qua gel mà theo đó tất cả các phân tử, không xét về kích thước, 
sẽ bị tác động một lực để di chuyển trong cùng một chất nền. Gel ở đây có 
thể xem tương đương với một hạt trong cột lọc gel. 
Các protein có thể được phân tách dựa trên khối lượng bằng điện di trên 
acrylamide dưới điều kiện đã bị biến tính. Hỗn hợp protein được hòa tan 
trong dung dịch sodium dodecyl sulfate (SDS), một chất tẩy mang điện tích 
âm sẽ phá tất cả các nối không cộng hóa trị của protein ban đầu. 
Mercaptoethanol (2-thioethanol) hay dithiothreitol cũng có thể được thêm 
vào để làm giảm số nối disulfide. Phức hợp SDS với protein đã bị biến tính 
có một điện tích thực âm tỉ lệ thuận với khối lượng của protein. Điện tích âm 
có được do gắn với SDS lớn hơn rất nhiều điện tích của bản thân protein ban 
đầu; vì thế, điện tích ban đầu của protein không ảnh hưởng đáng kể đến điện 
tích của phức hợp. Phức hợp SDS-protein sau đó sẽ là mẫu để chạy điện di. 
Khi điện di kết thúc, những protein trên gel sẽ được nhìn thấy là một dãy các 
băng bằng cách nhuộm với bạc hay một chất nhuộm màu như Coomassie 
blue. Những đánh dấu phóng xạ có thể được phát hiện bằng cách đặt một tấm 
phim chụp x quang lên miếng gel, quá trình này gọi là phóng xạ tự ghi. 
Những protein nhỏ di chuyển nhanh trong gel, trong khi những protein lớn ở 
phía đầu, gần vị trí nạp mẫu. Tính di động của phần lớn các chuỗi 
polypeptide dưới những điều kiện như thế tỉ lệ với khối lượng của chúng. 
Tuy nhiên, cũng có vài protein giàu carbohydrate và protein màng không tuân 
theo mối tương quan này. SDS-PAGE có độ phân tách cao, cho kết quả 
nhanh và độ nhạy cao. Chỉ với lượng nhỏ khoảng 0.1ug (~2pmol) protein đã 
cho vạch rất rõ khi nhuộm với Coomassie blue và thậm chí ít hơn (~0.02ug) 
vẫn có thể được phát hiện khi nhuộm bằng bạc. Những protein chênh lệch về 
khối lượng khoảng 2% (ví dụ: 40 kD và 41 kD hay khác nhau khoảng 10 acid 
amin) có thể phân biệt được bằng SDS-PAGE. 
Vì vậy, SDS-PAGE giúp chúng ta đánh giá kết quả của quá trình tinh sạch. 
Với những phân đoạn đầu tiên, kết quả là dãy gồm rất nhiều protein. Nhưng 
qua mỗi bước tinh sạch, số lượng protein sẽ giảm và sẽ có một băng ngày 
càng đậm. Vạch đó tương ứng với protein mục tiêu. 
V.2 Điện di dựa vào điểm đẳng điện 
Các protein còn có thể được phân tách bằng điện dựa vào tỉ lệ giữa số acid 
amin có tính acid và số acid amin có tính base của chúng. Điểm đẳng điện 
của một protein (pI) là điểm pH mà ở đó điện tích thực của nó bằng 0. Tại 
điểm pH này, tính di động của protein trong điện trường cũng bằng 0 bởi vì z 
trong công thức (1) bằng 0. Mỗi một protein có một pI riêng; ví dụ như pI của 
cytochrome C, một protein vận chuyển ion có tính base cao, là 10.6, trong khi 
pI của albumin huyết thanh, một protein có tính acid trong máu, là 4.8. Giả 
định cho một hỗn hợp protein chạy trong điện trường trong một miếng gel 
với một khuynh độ pH, không có sự hiện diện của SDS. Mỗi protein sẽ di 
chuyển cho đến khi nó đến vị trí mà tại đó pH bằng pI của nó. Dựa vào hiện 
tượng này, ta có phương pháp phân tách protein dựa vào điểm đẳng điện của 
protein. để tạo Khuynh độ pH, trước hết là cho vào gel một hỗn hợp 
polyampholyte (những polymer nhỏ đa điện tích) có nhiều giá trị pI, sau đó 
điện di hỗn hợp này. Điện di dựa vào điểm đẳng điện phân tách protein nhanh 
với khả năng phân biệt được sự chênh lệch pI khoảng 0.01 hay những protein 
khác nhau chỉ một đơn vị điện tích cũng có thể được phân tách bằng phương 
pháp này. 
V.3 Điện di hai chiều 
Đây là một phương pháp có khả năng phân tách cao do sư kết hợp SDS-
PAGE với điện di dựa vào điểm đẳng điện. Mẫu protein đầu tiên sẽ được 
chạy điện di dựa vào điểm đẳng điện. sau đó, đặt khoảng gel có chứa protein 
vừa được điện di lên tấm gel SDS-polyacrylamide theo phương nằm ngang. 
Protein sẽ chịu một điện trường theo chiều dọc. Kết quả là một mô hình các 
điểm được phân tách hai chiều, chiều ngang theo điểm đẳng điện, chiều dọc 
theo khối lượng. Khả năng phân tách của phương pháp này được chứng minh 
khi hơn một ngàn protein của vi khuẩn E. coli có thể được phân tách trong 
một lần chạy điện di. 
Những protein được phân tách từ tế bào ở các điều kiện sinh lý khác nhau có 
thể phân tách được bằng phương pháp này, sau đó cường độ của tính hiệu sẽ 
được xác định. Với cách này, những protein cụ thể sẽ được thấy ở dạng mạnh 
hay yếu tùy vào tình trạng sinh lý. Tuy nhiên, phương pháp này có một hạn 
chế là có rất nhiều protein được phân tách nhưng lại phân biệt rõ. Để khắc 
phục hạn chế này, người ta kết hợp điện di hai chiều với kỹ thuật khối phổi. 
V.4 Đánh giá kết quả tinh sạch protein 
Sau mỗi bước tinh sạch, những thông số sau cần được ghi nhận để có thể 
đánh giá quá trình tinh sạch protein: 
Protein tổng số: lượng protein có trong một phân đoạn. Thông số này tính 
bằng cách nhân nồng độ một phần của phân đoạn với tổng thể tích của phân 
đoạn đó. 
Hoạt tính tổng: hoạt tính của enzyme trong phân đoạn đó. Thông số này được 
tính bằng cách nhân hoạt tính của enzyme có trong lượng mẫu được xét 
nghiệm với tổng thể tích của phân đoạn đó. 
Hoạt tính riêng: bằng hoạt tính tổng chia cho protein tổng số. 
Yield: hoạt tính còn lại sau mỗi bước tinh sạch được thể hiện bằng phần trăm 
hoạt tính của dịch chiết thô với hoạt tính trong dịch chiết khởi đầu là 100%. 
Mức tinh sạch: chỉ mức độ tinh sạch, được tính bằng cách chia hoạt tính 
riêng, được tính sau mỗi bước tinh sạch, với hoạt tính riêng của dịch chiết 
ban đầu. 
Qua theo nghiên cứu khảo nghiệm, người ta thấy rằng sau mỗi bước tinh 
sạch, mức độ tinh sạch tăng lên trong khi yield lại giảm. Thật vậy, với kỹ 
thuật SDS-PAGE, nếu ta nạp một lượng mẫu nhất định vào mỗi giếng trên 
bản gel ứng với một bước tinh sạch, ta sẽ thấy số băng sẽ giảm tỉ lệ với mức 
độ tinh sạch trong khi tỉ lệ lượng protein mục tiêu với tổng số protein hiện 
diện sẽ tăng . 
Vì vậy, đánh giá quá trình tinh sạch phải dựa cả vào 2 thông số mức độ tinh 
sạch và yield. Một quá trình tinh sạch tốt sẽ có mức độ tinh sạch cao và chỉ số 
yield thấp. Nếu chỉ số yield cao còn mức độ tinh sạch thấp có nghĩa là còn 
nhiều tạp nhiễm trong mẫu (nhiều protein ngoài protein mục tiêu) và làm 
phức tạp việc giải thích thí nghiệm. 
VI. Xác định khối lượng của protein 
Phép ghi phổ khối lượng là một kỹ thuật dùng để phân tích trong hóa học hữu 
cơ trong nhiều năm. Tuy nhiên, cho đến gần đây, khả năng bay hơi quá thấp 
của protein đã làm mất tác dụng của phép ghi phổ khối lượng trong việc 
nghiên cứu các phân tử này. Khó khăn này đã được khắc phục khi có những 
kỹ thuật chuyển protein và những đại phân tử khác thành dạng khí được đưa 
vào ứng dụng là matrix-assisted laser desorption-ionization (MALDI) và 
electrospray spectrometry. Ở đây tập trung vào kỹ thuật MALDI.