Sựchuyển đổi từnền kinh tếkếhoạch hoà tập trung sang nền kinh tếthị
trường có sựquản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ởnước ta hiện nay là
một tất yếu khách quan. Quá trình chuyển đổi đó được bắt đầu từ đại hội VI năm
1986. Trong quá trình chuyển đổi từ đó đến nay nền kinh tếnước ta đã thu được rất
nhiều thành tựu to lớn. Việc chuyển sang nền kinh tếthịtrường có sựquản lý của
nhà nước theo định hướng XHCN đã đưa nước ta thoát khỏi sựtrì trệvềphát triển
kinh tếsang một nền kinh tếmới, phát triển mạnh hơn. Trong tương lai, có thểnền
kinh tếnước ta sẽtheo kịp được nền kinh tếcủa những nước phát triển trên thế
giới. Những thành công bước đầu của nền kinh tếcó được là do Đảng và nhà nước
ta đã nhận
24 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1585 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tính tất yếu chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÍNH TẤT YẾU CHUYỂN ĐỔI TỪ NỀN KINH TẾ
KẾ HOẠCH HÓA TẬP TRUNG SANG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG CÓ SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ
NƯỚC THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
KI
LO
BO
OK
S.
CO
1
LỜI NÓI ĐẦU
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoà tập trung sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay là
một tất yếu khách quan. Quá trình chuyển đổi đó được bắt đầu từ đại hội VI năm
1986. Trong quá trình chuyển đổi từ đó đến nay nền kinh tế nước ta đã thu được rất
nhiều thành tựu to lớn. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng XHCN đã đưa nước ta thoát khỏi sự trì trệ về phát triển
kinh tế sang một nền kinh tế mới, phát triển mạnh hơn. Trong tương lai, có thể nền
kinh tế nước ta sẽ theo kịp được nền kinh tế của những nước phát triển trên thế
giới. Những thành công bước đầu của nền kinh tế có được là do Đảng và nhà nước
ta đã nhận ra rằng sự vận dụng và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và Nhà
nước ta đã chủ chương chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
cơ chế thị trường, nhưng nền kinh tế nước ta không phải là nền kinh tế thị trường
thuần tuý mà là nền kinh tế thị trường có sự tham gia của nhà nước với tư cách là
người điều tiết nền kinh tế theo định hướng XHCN. Vậy Nhà nước có vai trò rất
lớn trong nền kinh tế. Nhưng Nhà nước thự hiện chức nưng đó bằng những công cụ
gì và thực hiện như thế nào? đó là vấn đề làm tôi quan tâm và đi sâu vào tìm hiểu
vấn đề nà. đề án sẽ đề cập đến những vấn đề: Tính tất yếu chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng XHCN. Vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế. Và một số
giải pháp nhằm đổi mới và tăng cương vai trò kinh tế của nhà nước. Đặc trưng của
nền kinh tế thị trường ở nước ta.
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KI
LO
BO
OK
S.
CO
2
PHẦN I
SỰ CẦN THIẾT VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC CHUYỂN ĐỔI NÈN KINH
TẾ TỪ KẾ HOẠCH HOÁ TẬP TRUNG SANG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CÓ
SỤ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN
I - KINH TẾ KẾ HOẠCH HOÁ TẬP TRUNG NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ
NHƯỢC ĐIỂM
1- Ưu điểm
Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước
XHCN cũ, cả nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức rộng rãi ở nông
thôn và thành thị. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, có thêm sự giúp đỡ tận tình
của các nước XHCN cũ mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được tính ưu
việt của nó. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế
hoạch hoá. Ta đã tập trung được vào tay một lực lượng vậ chất quan trọng về đất
đai, tài sản, tiền vốn để ổn định và phát triển kinh tế. Vào những năm đầu của thập
kỷ, ở miền Bắc đã có những chuyển biến về kinh tế xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền
kinh tế tậpt rung đã tỏ ra phù hợp với nền kinh tế tự cung, tự cấp vốn có của ta lúc
đó, đồng thời nó cũng thích hợp với kinh tế thời chiến lúc đó.
2 - Nhược điểm.
Sau ngày giải phóng Miền Nam bức tranh về hiện trạng kinh tế xã hội đã
thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại hình kinh tế tự cấp
tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá.
Đó là thực tế khách quan, tồn tại sau năm 1975, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục
chủ trương xây dựng nên fkt tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trong phạm vi cả
nước. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý
kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng
tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản
lý kinh tế mà chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KI
LO
BO
OK
S.
CO
3
của đất nước, trái lại đã dẫn đến việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các
nguồn tài nguyên đó. tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm,
sản xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc đó gây
ra rất nhiều hậu qủa xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế “gặp nhiều khó
khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền
kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có. Vốn đàu tư chủ
yếu dựa vào vay viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo thang,
khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm
sút thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự
suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã rập khuôn một mô hình kinh tế chưa
thích hợp và kém hiệu quả. Những sai lầm cơ bản là:
- Ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên mô lớn
trong điều kiện chưa cho phép. Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và
đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân
số ngày càng một gia tăng.
- Thực hiện việc phân phối lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép: khi
tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vừa phân
phối lại một cách gían tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển.
- Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính,
mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của
người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của hàng triệu
người lao động.
II - SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN SANG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA.
Trước sự suy thoái k nghiêm trọng viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đặt
nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới. Tại đại hộiVI của Đảng đã chủ
chương phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế hạch
toán kinh doanh XHCN. Đến Đaih hội VII Đảng ta xác định roc việc đổi mới cơ
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KI
LO
BO
OK
S.
CO
4
chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra việc đó
tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận
thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của
Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Việc chuyển đổi trên hoàn toàn đúng đắn. Nó phù
hợp với thực tế của nước ta phù hợp với các qui luật kinh tế và xu thế của thời đại.
- Nếu không thay đổi cơ chế vẫn giữ cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ
thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn
để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ tàm mươi đã chỉ rõ thự
hiện cơ chế kinh tế cho dù chúng ta đã liên lục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý
kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không
đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của Xã họi đạt mức rất thấp, tích luỹ hầu như không
có đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài.
- Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc cái đó chỉ có tác
dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo
chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những
không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh
ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng xuất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.
- Xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của nền kinh tế thị
trường, Về vấn đề này có nhiều ý kiến đáng giá khác nhau. Nhiều nước cho rằng
thị trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Thực tế kinh tế thị trường đã hình thành
và phát triển đạt được những mức phát triển khác nhau ở hầu hết các đô thị và vùng
hẻo lãnh và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta
phát triển chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao
động thị trường vốn và thị trường đất đai về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ
can thiệp của nhà nước còn rất thấp.
- Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà
nhập với nền kinh tế thị trường thé giới, sự giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư trực
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KI
LO
BO
OK
S.
CO
5
tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền
kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả các loại hàng hoá trong nước gần gũi
hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.
- Xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của môix
nước không tách roì sự phát triển và hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc
gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh
mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách của các quốc gia là tảoa
đượcnhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh tế cao,
đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp, tiềm lực kinh tế đã trở thành
thức đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ
uy tín duy trì sức mạnh của các Đảng cầm quyền.
Tuy vậy, nền kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta sẽ không phải là nền
kinh tế thị trường thuần túy. Lý thuyết “để mặc” cho thị trường tự do cạnh tranh là
không tồn tại. Ngoài bàn tay “vô hình”, vai trò của chính phủ để điều tiết, khắc
phục những khuyết tật của thị trường tạo cho nền kinh tế ổn định và phát triển. Đối
với nứoc ta vait rò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng sẽ rất quan
trọng.
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KI
LO
BO
OK
S.
CO
6
PHẦN II
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA
I - TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VAI TRÒ QUẢN LÝ VĨ MÔ CỦA
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ.
Tại sao Chính phủ phải can thiệp vào nền kinh tế ? Adam Smith, một nhà
kinh tế học đã lập luận trong tác phẩm kinh điển của mình vào năm 1776, cuốn
“của cải các dân tộc”, rằng người ta trong khi theo đuổi lợi ích riêng của mình
dường như được “một bàn tay vô hình” dẫn dắt để tăng thêm lợi ích cho xã hội, nếu
như thị trường phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả sao cho các nhu cầu
của người tiêu dùng được thoả mãn với chi phí tối thiểu, thì tại sao Chính phủ lại
can thiệp vào nền kinh tế để làm gì ? Nhà kinh tế học bắt đầu từ cuốn “của cải các
dân tộc” của Adam Smith. Song với tư tưởng cho rằng, nguồn gốc của sự giàu có
mỗi dân tộc nằm ở sự tự do kinh tế, Adam Smith về thực chất chưa nhìn thấy sự
phát triển . Theo ông nền kinh tế phát triển được, xã hội giàu có được là nhờ tự do
cạnh tranh, còn vai trò của nhà nước chỉ bao hàm ở việc bảo vệ quyển sở hữu
thông qua luật pháp, đảm bảo hoạt động cho các nhà kinh doanh và chống thù trong
giặc ngoài , bảo đản môi trường ổn định cho nhà nước cũng có chức năng kinh tế
nhất định, như chăm lo tới những việc đào sông, đắp đường...Nhưng nhing chung
Adam Smith vẫn thiên về ý tưởng coi nhà nước chỉ là “người bảo vệ”, “người canh
gác” cho nền kinh tế.
Quả thật tư tưởng ủng hộ nèn kinh tế thị trường từ do cỉa Adm Smith và các
nhà kinh tế học thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã tạo điều kiện cho nền kinh tế thị
trường phát triển. Song sự phát triển tự do cũng gây nên những tệ nạn như khủng
hoảng thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo, bất nình đẳng. Từ đó dẫn đến khủng
hoảng chính trị, xã hội sâu sắc, đe doạ sự tổn hại của chủ nghĩa tư bản đương thời.
Trong bối cảnh đó nhiều nhà kinh tế học thế kỷ XIX đã đưa ra những tư tưởng Nhà
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KI
LO
BO
OK
S.
CO
7
nước phải can thiệp vào kinh tế. Nổi bật là tư tưởng của Karl marx (1818 - 1883)
kế thừa quan điểm của những nhà không tưởn Châu âu đầu thế kỷ XIX, K.Mark
nhìn nhận nguyên nhân sâu xa của những khủng hoảng thất nghiệp, phân hoá, bất
bình đẳng thừ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Chế độ tư hữu
này đã phân chia xã hội thành hai giai cấp tư sản và vô sản. Giai cấp tư sản là người
nắm trong tay về tư liệu sản xuất. Họ là chủ sở hữu, có quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng, quyền định đoạt về tư liệu sản xuất và những kết quả của sản xuất. Còn giai
cấp vô sản là những người bị tước hết tư liệu sản xuất. Để sống họ phải bán sức lao
động cho nhà tư bản chủ nghĩa và quan hệ giữa tư bản và lao động cho nhà tư sản
và họ bị bóc lột giá trị thặng dư. Chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và quan hệ giữa tư
bản và lao động như vậy làm cho nền kinh tế phát triển tự do, vô chính phủ lâm vào
tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp, phân hoá bất bình đẳng. Để khắc phục những
tệ nạn đó giai cấp vô sản phải thông qua cách mạng xã hội về tư liệu sản xuất, từng
bước tiền dần tời một xã hội phồn thịnh, bình đẳng và văn minh.
Có nhiều người đã đi theo con đường của Kmark và nhiều nơi trên thế giới
đã tiền lên xây dựn XHCN, mà nền tảng của xã hội mà nền tảng của đó là chế độ sở
hữu ch về tư liệu sản xuất.
Mặc dù có nhiều cách lý giải khác nhau, sự thể hiện có những đặc điểm riêng
biệt, song những người theo tư tưởng này đều cho rằng, thông qua sở hữu xã hội về
tư liệu sản xuất, nhà nước nắm được các điều kiện vật chất của sản xuất từ đó sẽ tổ
chức quản lý thống nhất nền kinh tế, đưa nó vận hành theo định hướng của nhà
nước.
Đầu những năm 30 của thế kỷ XX, những cuộc khủng hoảng kinh tế nôt ra
năm 1929 - 1933 đã chứng tỉo rằng “bàn tay vô hình” không thể đảm bảo những
điều kiện ổn định cho kinh tế thị trường phát triển. Hơn nữa, trình độ xã hội hoá sản
xuất phát triển ngày càng cao đã chỉ cho các nhà kinh tế học thấy rằng cần phải có
sự cân thiệp của n vào quá trình hoạt động của nền kinh tế điều tiết nền kinh tế.
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KI
LO
BO
OK
S.
CO
8
Nhà kinh tế người Anh Jonh Meynard keynes (1884 - 1946) đã đưa ra ký thuyết
nhà nước điều tiết kinh tế thị trường.
Tư tưởng nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường của Keynes xuất phát từ
chỗ cho rằng, sự tăng lên của sản xuất sẽ dẫn đến sự gia tăng thu nhập, do đó làm
tăng tiêu dùng. Song do khuynh hướng “tiêu dùng giới hạn” nên tiêu dùng chậm
hơn so với thu nhập.
Vì vậy, cầu giảm xuống. Sự giảm sút cầu tiêu dùng hay tiêu dùng không đủ
sẽ kéo theo sự giảm sút của giá cả hàng hoá, từ đó làm cho tỷ xuất lợi nhuận giảm
xuống. Nếu tỉ suất lợi nhuận nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất vay thì các chủ đầu tư, họ
sẽ không dẫn nền kinh tế đi đến chỗ trì trệ, khủng hoảng và là cho nạ thất nghiệp
ngày càng tăng.
Để khắc phục tình trạng đã nêu, nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế, can
thiệp vào thị trường, phải mở ra các cuộc đầu tư lớn. Có làm như vậy mới huy động
được các nguồn tư bản nhàn rỗi để mở mang các hoạt động sản xuất kinh doanh,
giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho dân cư, làm cho nhu cầu tăng lên
sẽ làm sản xuất tăng nhanh, nhờ đó mà điều kiện đẩy lùi khủng hoảng và tình trạng
thất nghiệp. Theo thuyết của trường phải Keynes, nhà nước can thiệp vào kinh tế ở
cả tầm vĩ mô và vi mô. Ở tầm vĩ mô nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất,
chính sách tín dụng điều tiết lưu thông tiền tệ, lạm phát thuế, bảo hiểm, trợ cấp, đầu
tư phát triển v..v...Ở tầm vi mô nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. Tóm lại nền kinh tế thị trường lý tưởng là
nền kinh tế - Trong đó các hàng hoá và dịch vụ tự nguyện trao đổi bằng tiền theo
giá thị trường. Hệ thống này cho phép tạo lợi ích tối đa từ các nguồn tiềm năng sẵn
có của xã hội mà không cần sự can thiệp của chính phủ. Nhưng trên thực tế không
có nền kinh tế nào hoàn toàn là lý tưởng của “bàn tay vô hình”. Mỗi nền kinh tế
đèu có những khuyết tật dẫn đến những căn bệnh như ô nhiễm, thất nghiệp, chênh
lệch giàu nghèo quá mức nên bất cứ nơi nào trên thế giới không có chính phủ, dù
bảo thủ tới đâu lạ không nhúng tay vào nền kinh tế.
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KI
LO
BO
OK
S.
CO
9
II - VAI TRÒ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG CÓ SỰ QUẢN LÝ.
1 - Nhà nước ta quản lý kinh tế hay làm kinh tế.
Mặc dù không có nhà nước đứng trên nền kinh tế hay ngoài nền kinh tế
nhưng phải nhấn mạnh rằng nhà nước theo nguyên nghĩa của từ này “các nhà chủ
nô, phong kiến, tư sản cổ điển không làm kinh tế hay “quản lý nền kinh tế “ khi chủ
thể của hoạt động này ý thức được rằng: Tài nguyên là khan hiếm một cách tương
đối do đó các giá trị sử dụng cũng khan hiếm một cách tương đối cho dù đát nước ở
bất kỳ trình độ phát triển nào trên thang bậc của nền văn minh nhân loại. Chính vì
vậy chính phủ luôn phải lựa chọn các phương án phát triển kinh tế - xã hội sao cho
với một nguồn lực hiện như đang có của nền kinh tế có khả năng thoả mãn một
cách tốt nhất nhu cầu của dân cư về hàng hoá và dịch vụ, các doanh nghiệp phải lựa
chọn các phương án sản xuất kinh doanh sao cho đạt được lợi nhuận tối đa. Tuy
nhiên, sự khácnhau giữa nhà nước với doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp nhà nước)
chỉ là ở chỗ:
- Các doanh nghiệp làm kinh tế theo nghĩa của từ này: tính hiệu quả kinh tế
bằng thước đo lợi nhuận.
- Nhà nước không “làm kinh tế”như doanh nghiệp làm nhà nước quản lý vĩ
mô nền kinh tế tức là: Lựa chọn phương án phát triển kinh tế - xã hội can thiệp,
điều khiển mỗi hi nền kinh tế đi chệch ngoài phương án bởi các chấn động kinh tế -
chính trị - xã hội bên trong và bên ngoài.
2 - Vai trò kinh tế của nhà nước ta trong nền kinh tế thị trường .
Cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường là do tác động của qui luật giá
trị và cạnh tranh. ở đâu tồn tại các điều kiện về môi trường vủa kinh tế sẽ vận hành
theo cơ chế của nó. Mọi sự đều vận động theo một qui chế hay một phương thức
nhất định. Trong mỗi nền kinh tế có cơ chế hoạt động từ bản thân của nó và sự
quản lý nền kinh tế ấy.
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KI
LO
BO
OK
S.
CO
10
Trong nền kinh tế chỉ huy, nhà nước can thiệp quá sâu vào nền kinh tế và đã
làm cho các qui luật khách quan hệ trao đổi ngang bằng giá trị méo mó, phân phối
hàng tiêu dùng theo định hướng quan hệ cung cầu của hàng triệu con người bằng kế
hoạch chủ quan, hạn chế cầ, giảm nhu cầu vô hạn của dân chúng xuống thấp hơn
năng lự của họ phân phối vạt tư theo định lượng thực chất là làm giảm cung vì các
yếu tố đầu vào ít thì làm sao có sản phẩm đầu ra tăng lên. Để ổn định kinh tế, Nhà
nước đã chú trọng giải quyết việc làm cho tất cả, tăng biên chế theo kiểu biên chế
suốt đời, không còn có sự cạnh tranh nào nữa, thực ra là đã làm giảm năng suất lao
động xã hội xuống và cũng không còn động lực cho sự phát triển vì mọi lợi ích đã
tự xã hội hoá. Do sự can thiệp quá lớn các nền kinh tế chỉ huy đã bị thất bại.
Trong nền kinh tế hốn hợp, các nhà nước đã lựa chọn kiều lượng can thiệp
của mình vào trong thị trường một cách thích hợp hơn. Có ba loại can thiệp của
mình vào trong thị trường một cách thích hợp hơn. Có ba loại can thiệp ở các mức
độ khác nhau:”điều tiết” “điều khiển”và quản lý. Trước đây trong nền kinh tế chỉ
huy cơ chế kinh tế của chúng ta đã cho nhà nước quản lý. Nhà nước đã quản lý tư
liệu sản xuất, quản lý giá cả và quản lý việc phân phối tiền lương, thu nhập. Nay
khi đã chuyển sang cơ chế thị trường quyết định. Nhà nước quản lý kinh tế hiệ nay
hoàn toàn khác với cơ chế cũ. ở đây nn phải điều chỉnh thị trường bằng các công cụ
thuế, chi tiêu tài chính, lãi xuát và luật pháp. Do vậy mà trong cơ chế thị trường của
ta, sự điều tiết của nhà nước bằng các công cụ gián tiếp là chủ yếu. Ngoài ra nhà
nước cũng phải nắm trong tay một lực lượng kinh tế quốc doanh đủ mạnh, có hiệu
quả và được xen như là một lực lượng kinh tế cho đất nước.
Vai trò quản lý của nhà nước vào cơ chế thị trường những công cụ gián tiếp
không có nghĩa là giảm vai trò của nhà nước trong việc quan rlý kinh tế ch ở nước
ta. Ngược lại , vai trò của nhà nước rất lớn là yeu cầu rất cao. Khi việc quản lý, vĩ
mô của nhà nước mạnh, nhà nước đủ sức can thiệp một cách giản tiếp vào