Tóm tắt
Ở một thế giới hội nhập, hướng đến nền kinh
tế tri thức và cạnh tranh toàn cầu thì hợp tác quốc
tế trong giáo dục - đào tạo có ý nghĩa sống còn với
mỗi quốc gia. Thông qua hợp tác quốc tế về giáo dục
- đào tạo, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam có một
nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong
bối cảnh hội nhập quốc tế. Phải khẳng định rằng:
Hợp tác quốc tế là một trong những hoạt động hữu
hiệu để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo và
nghiên cứu khoa học.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 362 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính tất yếu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2017 No. 1/2017
96
TÍNH TẤT YẾU HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG
LĨNH VỰC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nguyễn Thị Tiến
Khoa Lý luận chính trị, Trường ĐH Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt
Ở một thế giới hội nhập, hướng đến nền kinh
tế tri thức và cạnh tranh toàn cầu thì hợp tác quốc
tế trong giáo dục - đào tạo có ý nghĩa sống còn với
mỗi quốc gia. Thông qua hợp tác quốc tế về giáo dục
- đào tạo, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam có một
nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong
bối cảnh hội nhập quốc tế. Phải khẳng định rằng:
Hợp tác quốc tế là một trong những hoạt động hữu
hiệu để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo và
nghiên cứu khoa học.
Từ khóa
Hợp tác quốc tế, giáo dục - đào tạo, yêu cầu
khách quan
1. Yêu cầu khách quan của việc mở rộng,
tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục
- đào tạo ở Việt Nam
Trong thời kỳ nào, giáo dục - đào tạo
cũng hết sức quan trọng, là quá trình biến con
người nguyên bản thành con người của xã hội
và truyền dạy họ những kiến thức, kinh nghiệm
nghề nghiệp để đảm bảo sự phát triển toàn
diện của đất nước; giữ vai trò cân đối giữa tri
thức và thực tiễn để thích nghi với sự biến đổi
của xã hội. Và ở một thế giới hội nhập, hướng
đến nền kinh tế tri thức, cạnh tranh toàn cầu
thì hợp tác quốc tế trong giáo dục - đào tạo
càng có ý nghĩa sống còn với mỗi quốc gia cũng
như mỗi con người. Con người trong quá trình
hội nhập ngày nay không chỉ cần năng lực lao
động mà còn cần trang bị các kỹ năng chung
sống hòa bình trong môi trường đa dạng văn
hóa, đặc biệt khi mà khối lượng kiến thức nhân
loại ngày càng gia tăng, thách thức hệ thống
giáo dục - đào tạo của tất cả các quốc gia trên
thế giới. Cạnh tranh giữa các quốc gia hiện nay
là cạnh tranh chất lượng nguồn nhân lực, hay
chính là cạnh tranh về giáo dục - đào tạo, khoa
học và công nghệ. Tuy nhiên, cùng sống và tồn
tại nên các nước vẫn chung tay, cùng nhau tạo
sự phát triển gắn kết. Hợp tác quốc tế đã giúp
Việt Nam tiếp nhận những nền giáo dục, khoa
học kỹ thuật tiên tiến, giúp cải thiện chất lượng
từ giáo trình, chất lượng quản lý đến giáo viên,
học sinh, sinh viên
1.1. Sự tác động của xu thế toàn cầu hóa,
mở cửa, tăng cường giao lưu, hợp tác giữa
các nước trên thế giới
Toàn cầu hoá như một quá trình không
thể đảo ngược. Tuy nhiên đó là quá trình định
hướng được và cần phải định hướng vì sự phát
triển bền vững của từng quốc gia cũng như
toàn thế giới.
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2017 No. 1/2017
97
Yêu cầu định hướng đối với tiến trình
toàn cầu hoá thuộc phạm vi chính sách phát
triển của từng quốc gia trên mọi lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Trong bối cảnh
đó, hợp tác giáo dục - đào tạo là một xu thế
mới trong chính sách phát triển giáo dục - đào
tạo ở các nước nhằm góp phần định hướng tiến
trình toàn cầu hoá.
Toàn cầu hóa tạo nên một thị trường giáo
dục - đào tạo quốc tế, đòi hỏi các trường, các cơ
sở giáo dục phải có chương trình đào tạo, cơ sở
vật chất và đội ngũ giảng viên theo tiêu chuẩn
quốc tế. Nền giáo dục đại học đã trở thành một
thị trường cạnh tranh của những nền giáo dục
hiện đại trên thế giới. Liệu Việt Nam có thể trở
thành một đối tác, hợp tác một cách có hiệu quả
và cạnh tranh được với các nước khác hay
không? Điều này còn phụ thuộc vào chiến lược
đổi mới của giáo dục - đào tạo, chính sách đầu
tư, khả năng quản lý và đội ngũ giảng viên.
Nhưng thực tế cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa
có trường nào đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Mỗi nước trên thế giới có sự khác nhau
về chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá và dân
tộc. Các nước phát triển như Mỹ, Anh, Đức,
Canada là những trung tâm giáo dục lớn trên
thế giới, hấp dẫn nhiều du học sinh. Những
trung tâm giáo dục của từng vùng như trường
Đại học ở Ả Rập cho những người nói tiếng Ả
Rập, các trường đại học ở Trung Quốc cho
vùng châu Á. Sự hội nhập, hợp tác quốc tế
về giáo dục - đào tạo ở từng nước còn phụ
thuộc nhiều vào sự quan tâm của các đảng
phái, chính phủ và năng lực kinh tế ở trong
các nước đó, nó đòi hỏi sự mạnh dạn nhưng
cũng phải hết sức cẩn trọng
Càng ngày càng có nhiều người thích du
học nước ngoài. Lưu lượng thông thường
khoảng chừng 4,5 triệu sinh viên, trong đó
80% là từ các nước đang phát triển. Ngay sinh
viên ở các nước phát triển cũng thích ra nước
ngoài để học thêm văn hoá bổ sung kiến thức.
Các giáo sư, nhà nghiên cứu và quản lý giáo
dục cũng chọn việc ra nước ngoài để giảng dạy
hoặc trau dồi thêm kiến thức (khoảng 200.000
người/năm). Làn sóng “di cư trí thức” từ các
nước đang phát triển đến các trung tâm giáo
dục trên thế giới. Họ mang theo cả một nền
văn hoá khác với dân tộc khi trở về nước
Nhu cầu hợp tác trong giáo dục - đào tạo
giữa các quốc gia trước quá trình toàn cầu hóa
đã và đang đòi hỏi phải xây dựng và phát triển
các khuôn khổ chung về giáo dục - đào tạo cấp
độ khu vực và quốc tế như: hệ thống giáo dục,
chuẩn mực về nhà trường, giáo viên, chương
trình đào tạo, thiết bị, phương tiện dạy học...
tạo cơ sở thuận lợi cho các chương trình hợp tác
giáo dục - đào tạo, công nhận tương đương văn
bằng, chứng chỉ, trao đổi giảng viên, sinh viên,
chuyển tiếp chương trình đào tạo, kiểm định
chất lượng... Cùng với quá trình xây dựng và
hoàn thiện hệ thống chuẩn mực quốc gia, việc
tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế và khu vực
là nhu cầu và xu hướng phát triển tất yếu của
hệ thống giáo dục các nước đặc biệt là các nước
đang phát triển. Các quan hệ quốc tế và quốc
gia trong phát triển giáo dục không phải là quan
hệ đối lập, loại trừ mà là quan hệ tương thích
nhằm đáp ứng các nhu cầu, lợi ích của từng
quốc gia và lợi ích của cộng đồng quốc tế trong
phát triển giáo dục - đào tạo. Nền giáo dục -
đào tạo tiến bộ và hiện đại hướng tới hình thành
và phát triển nhân cách toàn diện cho mỗi con
người trở thành những công dân, những thành
viên tích cực của quốc gia và thế giới.
Trước xu thế toàn cầu hóa, không một
quốc gia, dân tộc nào có thể “cô lập”, sống tách
khỏi cộng đồng thế giới. Nghị quyết Đại hội IX
đã chỉ rõ: Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến
đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến
nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng
nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản
xuất. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế kinh
tế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước
tham gia vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu
cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Các mâu
thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những
hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và
phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân
tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay
gắt. Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu
mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự
giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương”
[2, tr.64-65].
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2017 No. 1/2017
98
Yêu cầu định hướng đối với tiến trình
toàn cầu hoá thuộc phạm vi chính sách phát
triển của từng quốc gia trên mọi lĩnh vực kinh
tế - xã hội. Trong bối cảnh đó, hợp tác giáo dục
- đào tạo là một xu thế mới trong chính sách
phát triển giáo dục - đào tạo ở các nước nhằm
góp phần định hướng tiến trình toàn cầu hoá.
1.2. Tác động của cách mạng khoa học
công nghệ
Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật,
nay là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
đã tạo điều kiện cho xu thế “toàn cầu hóa”,
“quốc tế hóa” phát triển mạnh mẽ. Càng ngày
sự phân hóa giữa các nước phát triển và chậm
phát triển càng gia tăng. Tại diễn đàn hợp tác
và phát triển kinh tế năm 2001, Ban thư ký đã
có một báo cáo, trong đó nói rằng: những quốc
gia có chính sách phát triển kinh tế tri thức đã
tăng trưởng rất nhanh, còn những quốc gia
khác đã tụt hậu ngày càng rõ rệt hơn. Đầu thế
kỷ XX, khoảng cách thu nhập bình quân giữa
nước giàu nhất so với nước nghèo nhất là 10
lần, thì đầu thế kỷ XXI, khoảng cách đó là 400
lần. Sự không cập nhật tri thức mới trong quá
trình lão hóa tri thức tăng tốc, nhất là sự bất
cập với công nghệ mới, công nghệ cao là yếu
tố hàng đầu của sự phân hóa phát triển - kém
phát triển. Khoảng 30 năm lại đây, lượng kiến
thức nhân loại thu được về khoa học và công
nghệ bằng tổng số kiến thức đó trong hai ngàn
năm trước đó. Theo dự báo, đến năm 2020,
những tri thức khoa học sẽ tăng khoảng 4 lần
so với năm 2000.
Để giải quyết bài toán phát triển đầy
thách thức, Việt Nam phải tính đến yếu tố
con người, năng lực sáng tạo tri thức mới, từ
đó cần phải học tập và cập nhật kiến thức
mới, hòa mình vào với nền tri thức của nhân
loại để phát triển.
Công nghệ thông tin đang giúp cho quá
trình phát triển ở các quốc gia nhanh chóng
hơn. Công nghệ thông tin với hàng loạt các
sách báo điện tử, các bản tin, website, email
đã trở thành các dịch vụ công cộng nhanh nhất.
Thông tin toàn cầu giúp con người bước vào thế
giới học vấn rộng lớn. Kiến thức được nhân lên
gấp bội qua thư viện khổng lồ và vô tận từ máy
tính. Khả năng cập nhật những tri thức mới
cũng nhanh chóng. Công nghệ thông tin được
phát triển sử dụng với hình thức cao hơn, từ
quảng cáo đến thương mại điện tử và chính
phủ điện tử ở các nước phát triển. Những quốc
gia coi trọng công nghệ thông tin đã được lợi
vô cùng lớn trong việc tiếp nhận những tri thức.
Ngược lại, thực tế ở những nước chưa có đủ
điều kiện phát triển công nghệ thông tin thì nền
giáo dục cũng phát triển kém và hệ quả kéo
theo là nền kinh tế cũng trì trệ.
Công nghệ thông tin đặc biệt giúp cho sự
phát triển của các trung tâm đào tạo từ xa,
nhanh chóng và thuận lợi đưa bài giảng đến
từng người ở các vùng xa xôi hay thoả mãn bất
cứ thời gian nào của người ham học nhưng bận
rộn. Nhiều trường đã thực hiện các chương
trình đào tạo từ xa chất lượng và uy tín...
Tuy nhiên, hiện nay không phải quốc gia nào
cũng có điều kiện phát triển công nghệ thông
tin, Việt Nam đang tích cực và cố gắng không
ngừng để tiếp nhận tri thức qua kênh công nghệ
thông tin nhưng chưa thực sự hiệu quả
1.3. Nhu cầu phát triển đất nước nói
chung và mở rộng, tăng cường hợp tác
quốc tế trong giáo dục - đào tạo nói riêng
Thành tựu phát triển đất nước từ sau khi
đổi mới đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm
thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của
nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc
và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và
uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam có nền
kinh tế tăng trưởng khá, thoát ra khỏi nước
khu vực nước kém phát triển. Văn hoá, xã
hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân
tiếp tục được cải thiện. Tình hình chính trị -
xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an
ninh được tăng cường. Công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống
chính trị được củng cố. Quan hệ đối ngoại
không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh
tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt
nhiều kết quả tốt. Trước xu thế hội nhập
quốc tế, Việt Nam đi lên từ một nước nghèo
và lạc hậu nên càng không thể đứng ngoài
thế giới. Bắt đầu từ thế kỷ XXI, Việt Nam
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2017 No. 1/2017
99
vẫn còn đi sau các nước ở nhiều mặt, là một
nước nông nghiệp, dân số đông, năng lực
lao động thấp, tuy nhiên, lại có lợi thế về
nguồn nhân lực.
Bảng 1: Dự báo một số chỉ tiêu cơ bản về phát triển nhân lực đến 2020
Chỉ tiêu 2005 2010 2015 2020
1. Lực lượng lao động làm việc
trong nền kinh tế –Tổng số/
(1000 người)
43.456 45.750 47.500 48.500
2. Tỷ lệ lao động qua đào tạo
(%)
24,8 40,0 50,0 60,0
3. Số người được đào tạo kỹ năng nghề nghiệp trình độ cao
- Hoạch định chính sách 12.000 15.000 18.000 20.000
- Giảng viên đại học 47.700 70.000 120.000 200.000
- Khoa học – công nghệ 30.000 40.000 60.000 100.000
- Y tế, chăm sóc sức khỏe 51.500 60.000 70.000 80.000
Nguồn: Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam
Trước kia, giá nhân công ở Việt Nam
rẻ hơn so với một số nước ở khu vực là một
lợi thế nhưng hiện nay đặc điểm này không
còn là yếu tố hấp dẫn đối với nhà đầu tư
nước ngoài mà họ đang chuyển hướng vào
những nước có nguồn nhân lực tay nghề cao,
nền chính trị ổn định và tay nghề tốt. Đây là
một điều không mấy lợi thế cho sức cạnh
tranh về nguồn nhân lực của Việt Nam nói
riêng và sức cạnh tranh kinh tế nói chung.
Nhu cầu phát triển nhanh giáo dục - đào tạo
đòi hỏi sự đáp ứng của quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh
tế theo chiều sâu tri thức với công nghệ tiên
tiến và hội nhập quốc tế, trong khi nguồn
lực đầu tư cho giáo dục có giới hạn sẽ tạo
sức ép đối với phát triển giáo dục - đào tạo.
Nguy cơ tụt hậu có thể làm cho khoảng
cách kinh tế, tri thức, giáo dục – đào tạo giữa
Việt Nam với các nước ngày càng gia tăng. Để
trở thành một nước công nghiệp tiên tiến,
với xuất phát điểm là nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu và chỉ vừa đạt được một số
thành tựu kinh tế nhất định thì Việt Nam cần
phải giải quyết nhiều vấn đề, trong đó đào
tạo nguồn nhân lực có tư duy phù hợp với
nền kinh tế thị trường và toàn cầu hóa là
một trong những vấn đề tất yếu cần giải
quyết. Để giải quyết những nhược điểm của
nguồn nhân lực Việt Nam thì nền giáo dục -
đào tạo có đáp ứng được hay không, hay cần
sự giúp đỡ từ các nước tiên tiến? Dựa trên
những điều kiện khách quan cũng như chủ
quan, Việt Nam đã sớm nhận ra rằng muốn
tiến lên để hòa nhập với phát triển toàn cầu
thì Việt Nam cần phải mở rộng quan hệ
ngoại giao với các nước trong khu vực cũng
như trên thế giới về mọi mặt để tranh thủ sự
giúp đỡ của quốc tế trong đó có lĩnh vực giáo
dục - đào tạo.
Xu hướng toàn cầu hoá đang đặt ra
những tiêu chuẩn quốc tế cho nguồn nhân
lực có trình độ cao. Nền giáo dục Việt Nam
còn lạc hậu, phải đối mặt với một thách
thức nặng nề đó là vấn đề: “tồn tại hay
không tồn tại”.
Những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan
trọng và bức thiết đã và đang đặt ra những
yêu cầu, những nội dung rất mới, rất cao về
nguồn lực con người, với những giá trị mới,
tiêu chí mới về phẩm chất và năng lực của
mỗi con người và cả cộng đồng.
Nhận thức đúng sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã quán triệt bài học
về: Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức
khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại 7 trong điều kiện mới.
Phát huy nội lực xem đây là nhân tố quyết
định đối với sự phát triển; đồng thời coi
trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2017 No. 1/2017
100
qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ
các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực
mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp
để phát triển đất nước nhanh và bền vững,
trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định
hướng xã hội chủ nghĩa [3, tr.72-73]
Thách thức trước nguy cơ tụt hậu xa
hơn về giáo dục - đào tạo với khu vực và thế
giới kéo theo nguy cơ tụt hậu về kinh tế so
với các nước phát triển ngày càng lớn. Hợp
tác quốc tế hội nhập thế giới đồng nghĩa với
việc tăng lựa chọn quốc tế cho người học.
Nếu các cơ sở giáo dục - đào tạo trong nước
không đáp ứng được chất lượng, người học
có năng lực sẽ lựa chọn các cơ sở giáo dục -
đào tạo ngoài nước và sẽ làm cho các cơ sở
giáo dục - đào tạo trong nước gặp khó khăn
hơn trong việc tiếp cận các chuẩn mực giáo
dục - đào tạo quốc tế
Trước nhu cầu phát triển đất nước để
sánh ngang với các nước trên thế giới, với vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày
nay, Việt Nam hiện nay cần phải hợp tác
quốc tế về giáo dục - đào tạo, cùng với các
lĩnh vực khác. Đây là cơ hội để giáo dục Việt
Nam tiếp cận với xu thế tất yếu, thực hiện
việc trao đổi kinh nghiệm và xây dựng một
nền giáo dục – đào tạo tiên tiến bắt kịp với
thế giới và khu vực.
2. Tình hình hợp tác quốc tế trong giáo
dục - đào tạo ở Việt Nam cũng đặt ra
những yêu cầu mới
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
từ năm 1986 đã thực sự mở ra một thời kỳ
mới trong lịch sử nước ta, nền giáo dục - đào
tạo cũng có những chuyển biến căn bản.
Xuất phát từ quan điểm cơ bản là sự nghiệp
giáo dục phải phù hợp với sự nghiệp phát
triển kinh tế, yêu cầu của công cuộc đổi mới
giáo dục phải phù hợp với công cuộc đổi mới
toàn diện nền kinh tế - xã hội, ngay năm
1987, ngành giáo dục - đào tạo đã tập trung
thảo luận và đề xuất phương hướng đổi mới.
Đánh dấu giai đoạn mới này là thông
điệp ngoại giao do Đại hội Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ VII (1991) gửi đi, trong đó khẳng
định: “Việt Nam thực hiện chính sách đối
ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương
hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam muốn
là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát
triển” [3, tr.119]. Vì thế, cùng với những
bước chuyển quan trọng trong quan hệ quốc
tế, cụ thể là việc bình thường hoá quan hệ
ngoại giao với Hoa Kỳ (12/7/1995), Việt
Nam trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN
(28/7/1995), nước ta ký hiệp định khung về
hợp tác với Liên minh châu Âu
(17/7/1995),
Từ năm 2000, Việt Nam đã ban hành các
văn bản pháp lý khuyến khích sự hiện diện
thương mại của các nhà cung ứng giáo dục
nước ngoài theo cơ chế vì lợi nhuận và không
vì lợi nhuận, dưới các hình thức văn phòng đại
diện, cơ sở liên kết và cơ sở 100% vốn nước
ngoài. Mặt tích cực của nó là đã thúc đẩy tiến
trình đa dạng hoá giáo dục, đáp ứng nhu cầu
học tập của một bộ phận người học thuộc các
gia đình có thu nhập cao, khuyến khích sự du
học tại chỗ.
Từ năm 1986 đến năm 1990, mỗi năm ta
gửi được 4.400 lưu học sinh trong đó có 2.400
ở bậc đại học, sau đại học và 2.000 ở bậc trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề đi Liên Xô và
các nước Đông Âu. Đến đầu năm 1990, các nước
thuộc: Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu đã đào tạo cho Việt Nam 6.500 Phó
Tiến sĩ (nay là Tiến sĩ), 238 Tiến sĩ (nay là Tiến
sĩ khoa học), 34.000 sinh viên Đại học và
72.000 công nhân học nghề. Đây là những con
số to lớn ghi nhận công lao và tình cảm quý báu
của Nhà nước và nhân dân các nước anh em đã
giúp Việt Nam trong những năm tháng khó khăn
mọi bề và mãi mãi không quên.
Từ năm 1987 đến năm 1999, khoảng
16.000 lưu học sinh đã được cử đi học nước
ngoài và phân bố ở những khu vực địa lý
như sau: Liên Xô-Đông Âu 53,29%, Tây
Bắc Á 30,6%, Australia-Newzealand 6,8%,
Mỹ-Canada 0,9%, châu Phi-Mỹ Latinh
0,32%... lưu học sinh được cử đi đào tạo
bằng nhiều hình thức học bổng khác nhau,
Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology
Số 1/2017 No. 1/2017
101
thông qua các dự án, các chương trình hợp
tác song phương...
Năm 1999 - 2000, CIDA (Canadia
International Development Agency) của
Canada đã tài trợ Bộ Giáo dục và Đào tạo
một dự án trị giá khoảng 500.000 đôla
Canada để nâng cao năng lực xây dựng
chính sách và chiến lược giáo dục Việt Nam.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đón khoảng
400 lượt khách quốc tế, đến năm 1995 là
1.500 lượt, năm 1996 là 2.400 lượt và ngày
càng tăng lên. Trong số đó có 40% vào để trao
đổi, hợp tác nghiên cứu khoa học và đào tạo,
còn lại 60% số khách vào để giao lưu và tham
gia các hoạt động văn hóa, giáo dục vào mỗi
năm cuối thập kỉ 80.
Từ năm 2000 đến năm 2007 trong tổng
số 2.684 lưu học sinh được tuyển chọn đi học
tại 30 nước của đề án 322, số lượng được gửi
đi đào tạo nhiều nhất là ở Nga (496 người),
tiếp đó là Úc (357 người) và Mỹ (334 người),
chiếm tỉ lệ cao nhất là các ngành khoa học kỹ
thuật (41,49%), khoa học tự nhiên (14,55%),
quản lý kinh tế (14,42%)... Trong giai đoạn 2
đề án 322 (kéo d