Danh từ côn trùng 
học -Entomologie xuất 
phát tử hai chữ Hy 
Lạp 
là Entomos và Logos
có nghĩa là côn trùng và khoa 
học. Côn trùng học là một môn 
khoa học nghiên cứu về côn 
trùng. Lúc đầu khi nghiên cứu về 
côn trùng, người ta nghiên cứu 
tất cả các loài động vật thuộc 
ngành chân đốt (Arthropoda), 
nhưng đến giữa thế kỷ 19 côn 
trùng học chỉ còn nghiên cứu một 
lớp trong 9 lớp của ngành chân 
đốt đó là lớp côn trùng (Insecta).
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 22 trang
22 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3159 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổng quan về phân loại côn trùng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổng quan về phân 
loại côn trùng. 
Danh từ côn trùng 
học -
 Entomologie xuất 
phát tử hai chữ Hy 
Lạp 
là Entomos và Logos 
có nghĩa là côn trùng và khoa 
học. Côn trùng học là một môn 
khoa học nghiên cứu về côn 
trùng. Lúc đầu khi nghiên cứu về 
côn trùng, người ta nghiên cứu 
tất cả các loài động vật thuộc 
ngành chân đốt (Arthropoda), 
nhưng đến giữa thế kỷ 19 côn 
trùng học chỉ còn nghiên cứu một 
lớp trong 9 lớp của ngành chân 
đốt đó là lớp côn trùng (Insecta). 
I. Khái niệm về côn trùng. 
Kết quả nghiên cứu về côn trùng 
cho thấy: Côn trùng là lớp phong 
phú nhất trong giới động vật, có 
một cuộc sống khá phức tạp, Da số 
côn trùng có khả năng bay. Cơ thể 
phân chia một cách đặc trưng thành 
ba phần: đầu, ngực và bụng. Đầu 
mang một đôi râu, mắt kép và mắt 
đơn. Phần phụ miệng phân hóa theo 
chế độ ăn uống. Ngực mang ba đôi 
chân có năm phần và điển hình là 
hai đôi cánh. Bụng thường không 
có chân. Đa số côn trùng sống ở 
cạn, hô hấp bằng hệ khí quản với 
các lỗ thở phân bố trên các đốt cơ 
thể. Cơ quan bài tiết là 
ốngMalpighi. Thường trong chu 
trình sống có biến thái và ở những 
côn trùng biến thái thiếu, không có 
pha nhộng, thiếu trùng gần giống 
con trưởng thành. 
Nhiều côn trùng là có lợi như thụ 
phấn cho hoa, ăn thịt hoặc ký sinh 
trên các loài sâu hại nhưng cũng có 
một số đáng kể thường xuyên gây 
ra những tác hại to lớn cho nông, 
lâm nghiệp và sức khoẻ con người. 
Con người đã phải khá vất vả 
nghiên cứu tìm ra những biện pháp 
đấu tranh với chúng để giành giật 
lại những phần bị mất mát. 
II. Những đặc điểm chủ yếu của 
côn trùng. 
Côn trùng là lớp động vật phong 
phú về nhiều mặt. 
Về số lượng: 
Hiện nay các nhà sinh học đã biết 
được hơn 1 triệu 200 nghìn loài 
động vật, trong số đó côn trùng đã 
chiếm hơn 1 triệu loài và các loài 
côn trùng đã chiếm hơn 1/2 tổng số 
các loài sinh vật cư trú trên hành 
tinh chúng ta. Tuy vậy các loài côn 
trùng mà chúng ta chưa biết cũng 
còn rất nhiều. 
Về phân bố: 
Côn trùng phân bố rất rộng rãi... 
Trên trái đất từ xích đạo đến Nam 
cực, Bắc cực hay trên những hòn 
đảo xa xôi hẻo lánh đều thấy có côn 
trùng. Côn trùng phần lớn sống ở 
trên cạn song số loài sống ở dưới 
nước cũng không phải là ít. Trên 
đỉnh núi cao cách mặt đất 5.000, 
mét cũng thu thập được các loài bọ 
xít; máy bay bay cao 4.600 mét vẫn 
thấy có - nhiều loài côn trùng. Sâu 
non ve sầu có thể sống ở dưới đất 
sâu đến 2 mét, mối đào tổ sâu đến 
36m. Trong mạch nước nóng 70 - 
80 oC vắn thấy có côn trùng. Thậm 
chí trong chai nước mắm mặn như 
vậy vẫn có Dòi. 
Về mật độ: 
Có tài liệu cho biết bình quân 250 
triệu cá thể côn trùng cho một đầu 
người và 12 triệu cá thể cho một 
Km 2 đất. 
Về kích thước: 
Kích thước côn trùng cũng biến đổi 
nhiều, Người ta đã tìm thấy một 
loài o ng ký sinh thuộc 
họ Mymaridae thân dài 0,21mm, 
có thể coi là loài côn trùng nhỏnhất. 
Trong khi đó người ta đã tìm thấy 
một loài bướm (Thysania 
agrippina) ở Nam Mỹ dài xấp xỉ 
0,3 mét hay một loài chuồn chuồn 
thấy trong hoá thạch chiều dài sải 
cánh khoảng 0,5 - 0,7 mét. Nếu so 
sánh loài có kích thước lớn nhất với 
loài có kích thước nhỏ nhất nó gấp 
từ 1.500 - 2.500 lần; Trong khi đó 
ở lớp Thú - Mammalia loài Cá voi 
(Balaenoptera musculus) dài 30m 
có thể coi là loài lớn nhất và loài có 
vú nhỏ nhất tìm thấy ở Italia là loài 
chuột chỉ dài có 3,6cm, như vậy chỉ 
gấp 836 lần mà thôi. 
Về sinh sản: 
Côn trùng cũng là loài mắn đẻ nhất 
thế giới, Một con sâu xám đẻ từ 
1.500 - 2.000 trứng; một con o ng 
chúa đẻ tới 2.000 trứng một ngày; 
một đời con mối chúa có thể đẻ đến 
vài trăm triệu chứng. Côn trùng đẻ 
nhiều, thời gian sinh sống lại ngắn. 
Có loài chỉ sống vài ngày nên khi 
gặp điều kiện thuận lợi số lượng 
tăng lên kinh khủng. Ví dụ một cặp 
ruồi nhà (Musca domestica L.) 
trong mùa sinh sản từ tháng 2 đến 
tháng 7 có thể sinh ra 6 lứa. Mỗi 
ruồi cái trung bình đẻ 120 trứng và 
cho rằng tỷ lệ cái đực là 1: 1. Với 
điều kiện thuận lợi; không chết con 
nào thì trong mùa sinh sản chúng 
đã sinh ra tới 93 tỉ con và sau một 
năm mặt đất sẽ có một lớp ruồi dầy 
tới nửa mét. 
Tất nhiên thiên nhiên không bao 
giờ để côn trùng tuỳ ý sinh sản như 
vậy. Có hàng trăm nghìn yếu tố 
khác nhau tác động để hạn chế 
chúng. Côn trùng sở dĩ phong phú 
như vậy là do chúng có một số đặc 
điểm sau: 
- Côn trùng có một lớp da cứng 
chắc nhẹ nhàng, đàn hồi được để 
bảo vệ cơ thể. 
- Thân thể nhỏ bé, chỉ cần một 
lượng thức ăn rất nhỏ chúng cũng 
sống được nên dễ chiếm một vị trí 
thích hợp trong không gian. 
- Côn trùng là động vật không 
xương sống duy nhất có cánh nên 
phân bố rộng rãi. 
- Côn trùng có khả năng thích ứng 
với môi trường cao và sức sinh sản 
phi thường. 
III. Sự phân loại thế giới côn 
trùng. 
1. Nguyên tắc phân loại côn trùng 
Côn trùng có cấu tạo, hình thể và 
lối sống rất đa dạng và phong phú 
nhưng khi nghiên cứu tỉ mỉ giữa 
chúng vẫn có những nét giống nhau 
và có quan hệ huyết thống với 
nhau. Điều đó cho phép chúng ta có 
thể xếp chúng thành những đơn vị 
phân loại riêng biệt mà ta gọi là 
phân loại. 
Phân loại côn trùng là nghiên cứu 
những cơ thể khác nhau nhằm phân 
biệt và xác định mối quan hệ thân 
thuộc và nguồn phát sinh giữa 
chúng. Khi phân loại côn trùng 
ngoài những nguyên tắc chung như: 
Nguyên tắc so sánh, Nguyên tắc 
sinh vật học và cổ sinh vật học, 
người ta còn chú ý đến 4 vấn đề 
sau: 
- Mức độ phân hoá về thân thể côn 
trùng thành ba bộ phận: đầu, ngực, 
bụng. 
- Số lượng cánh, phân bố mạch 
cánh và độ rắn của cánh. 
- Sự cấu tạo của bộ phận miệng. 
- Các kiểu biến thái của côn trùng. 
2. Đơn vị phân loại của côn trùng. 
Loài (Species). Là đơn vị phân loại 
côn trùng. Nhóm các sinh vật có 
các đặc trưng hình thái, tên khoa 
học và đặc điểm di truyền giống 
nhau, có thể lai giống với nhau để 
cho đời sau hữu thụ. Mỗi loài 
thường có khu phân bố địa lí sinh 
thái nhất định. 
Giống (Genus). Là bậc phân loại 
trên loài trong hệ thống thang bậc 
phân loại sinh vật. Là tập hợp của 
nhiều loài tương tự. Chi hay giống 
có thề được phân thành phân chi 
hay phân giống, nhánh hay sectio, 
dãy và phân dãy. 
Họ (Familia). Là tập hợp của các 
giống gần nhau. Họ có thể chia nhỏ 
ra thành các phân họ, các tộc, các 
phân tộc. Tên họ của các loài thực 
vật có tận cùng bằng aceae , động 
vật là idea , còn côn trùng là idae 
Bộ (Ordo). Là tập hợp của các Họ 
gần nhau. Tên bộ thực vật có phần 
đuôi là les , côn trùng 
là ptera nhưng các bộ động vật 
không có phần đuôi đặc trưng, bộ 
có thể chia ra thanh các phân bộ 
Lớp (Classis). Là tập hợp của các 
Bộ gần nhất. Đuôi tận cùng của các 
lớp ở Tảo là Phyceae (chẳng 
hạn Bacillariophyceae lớp Tảo 
sillic hay Khuê tảo) và đuôi tận 
cùng các lớp ở nấm là Mycetes (ví 
dụ, Ascomycetes lớp Nấm túi). Các 
lớp thực vật bậc cao có đuôi 
là opsida(ví dụ Magnoliopsida lớp 
Mộc lan) và động vật có thể có 
đuôi khác nhau, ví dụ Pisces (lớp 
Cá), Amphibia (lớp Lưỡng cư). 
Lớp có thể được phân thành phân 
lớp. Các lớp thực vật và động vật 
tương tự được tập hợp lại thành 
ngành (ở thực vật 
là Division hay Phylum còn ở 
động vật là Phylum). 
Ngành (Phyla). Là tập hợp của các 
Lớp gần nhau. Đây là bậc phân loại 
cơ bản của sinh vật dưới bậc Giới 
(Phyla). Ví dụ Ngành thân 
mềm Mollusca , ngành ruột 
khoang Coelenterata. 
Giới (Kingdom). Là tập hợp của 
các Ngành gần nhau. Đây là bậc 
phân loại cao nhất của thế giới sinh 
vật. Sự phân chia các giới có sự 
thay đổi rất lớn trong lịch sử phát. 
triển của sinh học. Đầu tiên 
Linnaeus (1753) chia thế giới sinh 
vật thành hai giới: Động vật và 
Thực vật. Haeckel (1865) chia 
thành ba giới: Động vật, Thực vật 
và Sinh vật nguyên sinh. Sinh vật 
nguyên sinh (Protista) bao gồm các 
sinh vật có đặc điểm chung là cơ 
thể gồm một tế bào nhân chuẩn 
(động vật nguyên sinh và tảo đơn 
bào). Năm 1969 Whittaker chia thế 
giới sinh vật thành năm giới: Sinh 
vật nhân sơ, Sinh vật nguyên sinh, 
Nấm, Động vật và Thực vật. Năm 
1985, Hội các nhà dộng vật nguyên 
sinh quốc tế đề nghị tách Động vật 
nguyên sinh (Protozoa) ra khỏi giới 
Sinh vật nguyên sinh và thành một 
phân giới của giới Động vật - phân 
giới Động vật đơn bào (Protozoa). 
Gần đây, một số tác giả đề nghị 
chia thành ba giới. Nay được chia 
thành tám giới. 
Vậy loài là đơn vị phân loại bé 
nhất, nhưng loài không có nghĩa là 
không biến đổi, mà các cá thể trong 
cùng một loài cũng có sự khác 
nhau...Sự khác nhau nhiều hay ít là 
tuỳ ở sự biến đổi của điều kiện 
ngoại cảnh. 
Ngày nay, trong thực tế, bên cạnh 
loài còn có loài phụ. Loài phụ 
(Subspecies) là loài có sự khác 
nhau về hình thái và đặc tính sinh 
học nhất định với loài chính, sự 
khác biệt đó là bền vững một cách 
tương đối mà vẫn có thể lai giữa 
chúng với nhau và giữa loài chính 
và loài phụ. 
Loài phụ được hình thành dưới tác 
đông lâu dài của điều kiện ngoại 
cảnh và sự chọn tự nhiên. Thí dụ 
loài o ng - mật phụ ở vùng Côcadơ 
(Apis mellifera remipes Poll) có 
những đặc điểm khác với loài chính 
(Apis mellifela L.) là các đốt bụng 
thứ nhất, thứ hai, thứ ba có màu đỏ 
vàng, ít đốt người và chỉ phân bố ở 
vùng Côcadơ. Vì vậy loài phụ còn 
gọi là chủng địa lý. 
Để có thể phân loại một cách chính 
xác bên cạnh những loài chính, 
giống chính, họ chính v.v... người 
ta còn thiết lập các loài phụ, giống 
phụ, họ phụ... hay tổng họ tổng bộ 
v.v... Trong tự nhiên chỉ có loài tồn 
tại trong thực tế còn giống, họ, bộ... 
chỉ là đơn vị qui ước trong phân 
loại mà thôi. 
3. Qui ước danh pháp của côn 
trùng 
Loài côn trùng có hai kiểu tên: tên 
phổ thông và tên khoa học. Tên phổ 
thông là những tên địa phương nơi 
phát hiện hoặc cư trú của chúng 
nhưng nó không chính xác bằng tên 
khoa học vì một loài hoặc một 
nhóm loài có thể có nhiều tên địa 
phương khác nhau, ngược lại có 
nhiều loài chỉ có chung một tên 
hoặc không có tên. 
Tên khoa học là tên đươc sử dụng 
trong khoa học trên toàn thế giới, 
mỗi loài côn trùng hoặc một nhóm 
chỉ có một tên. Tên khoa học của 
loài côn trùng ngay từ thời Carl 
Linê (Karl Linné) đã thống nhất 
gồm hai thuật ngữ La tinh: Tên 
trước chỉ giống viết hoa chữ các 
đầu, tên sau chỉ loài không viết hoa 
chữ cái đầu. 
Nếu là loài phụ tên của nó gồm 3 
phần và phần thứ ba để chỉ loài phụ 
đó. Ngoài ra phía sau tên loài hoặc 
loài phụ còn có tên viết tắt của tên 
tác giả nghiên cứu loài côn trùng 
đó. 
Tên giống tên loài và loài phụ được 
viết nghiêng còn tên tác giả được 
viết hoa và đứng. Nếu tên tác giả để 
trong ngoặc đơn có nghĩa là loài 
hoặc loài phụ mà tác giả đặt tên 
được đặt trong một giống khác với 
giống hiện tại. Ví dụ loài: Bướm 
báo hoa vàng Cethosia 
cyane Drury. 
Loài ngài này đã được ông Drury 
mô tả dầu tiên và đặt tên loài 
là cyane nhưng ở trong giống khác 
với giống Cethosia hiện tại. 
Rất khó có thể xác định hiện nay có 
con số chính thức là bao nhiêu loài 
côn trùng hiện còn sống trên trái 
đất của chúng ta. Vì thế các phân 
loài có khi được xem như loài..., lại 
có nhưng loài mới còn tiếp tục 
được khám phá và mô tả.