Tóm tắt
Cuốn sách “Đô thị vị nhân sinh” của Giáo sư Jan Gehl không phải là một công trình nghiên cứu hàn
lâm, mà là một công trình nghiên cứu thực tiễn, hướng vào vấn đề quy hoạch kiến trúc và phát triển đô
thị hiện đại. Do những quan niệm lầm lạc, do sức ép về kinh tế và dân số, khoảng 50 năm trở về trước,
hầu hết các đô thị ở các quốc gia trên thế giới được xây dựng hoặc không có triết lý, hoặc đi theo triết lý
phục vụ phương tiện xe cơ giới, phục vụ chính các công trình, chứ không phục vụ con người. Từ đó dẫn
đến rất nhiều đô thị phát triển lộn xộn, tùy tiện, ngày càng gia tăng nạn kẹt xe, ô nhiễm môi trường,
mất an ninh, chất lượng cuộc sống của cư dân đô thị thấp Cuốn sách “Đô thị vị nhân sinh” đưa ra
triết lý đô thị vì con người, cho con người; theo đó toàn bộ quy hoạch, thiết kế, phát triển đô thị đều tuân
thủ một cách tinh tế và cẩn trọng triết lý nhân văn này. Bài viết đúc rút một số luận điểm cơ bản của
cuốn sách và từ đó liên hệ với tình trạng đô thị cũng như hướng phát triển đô thị ở Việt Nam hiện nay
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 476 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Từ cuốn sách “Đô thị vị nhân sinh”, nghĩ về văn hóa đô thị Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 28 - Tháng 6 - 2019 107
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
TỪ CUỐN SÁCH “ĐÔ THỊ VỊ NHÂN SINH”,
NGHĨ VỀ VĂN HÓA ĐÔ THỊ VIỆT NAM HIỆN NAY
VĂN GIÁ
Tóm tắt
Cuốn sách “Đô thị vị nhân sinh” của Giáo sư Jan Gehl không phải là một công trình nghiên cứu hàn
lâm, mà là một công trình nghiên cứu thực tiễn, hướng vào vấn đề quy hoạch kiến trúc và phát triển đô
thị hiện đại. Do những quan niệm lầm lạc, do sức ép về kinh tế và dân số, khoảng 50 năm trở về trước,
hầu hết các đô thị ở các quốc gia trên thế giới được xây dựng hoặc không có triết lý, hoặc đi theo triết lý
phục vụ phương tiện xe cơ giới, phục vụ chính các công trình, chứ không phục vụ con người. Từ đó dẫn
đến rất nhiều đô thị phát triển lộn xộn, tùy tiện, ngày càng gia tăng nạn kẹt xe, ô nhiễm môi trường,
mất an ninh, chất lượng cuộc sống của cư dân đô thị thấp Cuốn sách “Đô thị vị nhân sinh” đưa ra
triết lý đô thị vì con người, cho con người; theo đó toàn bộ quy hoạch, thiết kế, phát triển đô thị đều tuân
thủ một cách tinh tế và cẩn trọng triết lý nhân văn này. Bài viết đúc rút một số luận điểm cơ bản của
cuốn sách và từ đó liên hệ với tình trạng đô thị cũng như hướng phát triển đô thị ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Đô thị vị nhân sinh, phát triển đô thị, văn hóa đô thị, Giáo sư Jan Gehl
Abstract
The book “Cities for people” by Professor Jan Gehl is not an academic research project, but a
practical research project, aimed at the issue of architecture planning and modern urban development.
Due to misconceptions and pressures of economic and population, about 50 years ago, most cities
in every country were built with no philosophy, or follow the philosophy of serving motor vehicles,
serving the functions of the constructions themselves, not serving people. Therefore, many urban
areas have developed disorderly, arbitrarily, increasing traffic jam, environmental pollution, insecurity,
low quality of life of urban residents... The book “Cities for people“ offers the philosophy of urban for
people; Accordingly, all urban planning, design, and development subtly and carefully comply with
this humanistic philosophy. The article draws some basic points of the book and relates it to the urban
situation as well as the direction of urban development in Vietnam today.
Keywords: Cities for people, urban development, urban culture, Professor Jan Gehl
1. Một cuốn sách có giá trị khai sáng
Là một người không sinh ra từ đô thị nhưng sống trong đô thị, quan sát thấy đô thị ở nước ta hiện nay ngày
càng phồn hoa nhưng chất lượng cuộc sống
lại ngày một kém đi, tôi tự đặt ra nhiều câu
hỏi, nhưng có nhiều câu không dễ trả lời. Gần
đây, may mắn được đọc quyển sách “Đô thị vị
nhân sinh” của vị Giáo sư đáng kính Jan Gehl,
tôi đã tìm ra được nhiều câu trả lời thỏa đáng
và cũng gợi ra cho tôi nhiều suy nghĩ về đô thị
Việt Nam hiện nay, đặc biệt vấn đề làm thế nào
để con người có được một cuộc sống hạnh
phúc nơi đô thị.
Jan Gehl là một kiến trúc sư và cựu giáo sư
tại Học viện Mỹ thuật Hoàng gia Đan Mạch,
chuyên gia hàng đầu về quy hoạch kiến trúc đô
thị; đối tác sáng lập của Gehl Architects - Công
ty Tư vấn chất lượng đô thị. Ông là tác giả của
các dự án nâng cấp đô thị của 11 thành phố
lớn thuộc các quốc gia Đan Mạch, Thụy Điển,
Hà Lan, Anh, Mỹ, Úc và nhiều công trình quy
hoạch đô thị và kiến trúc khác. Ông cũng là tác
giả của các cuốn sách “Life between Buildings”,
“New City Spaces”, “Public Spaces - Public Life” và
“New City Life”. Được xuất bản lần đầu tiên năm
2010, cho đến nay cuốn sách “Đô thị vị nhân
sinh” (tên gốc tiếng Anh là “Cities for People”)
Số 28 - Tháng 6 - 2019108
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
đã được dịch sang 36 thứ ngôn ngữ khác nhau;
bản tiếng Việt do Nhà xuất bản Xây dựng xuất
bản mới đây (tháng 3 năm 2019) là bản chuyển
ngữ thứ 37.
Thoạt nghe, nhiều người nghĩ đây là cuốn
sách chỉ dành riêng cho ngành kiến trúc và
xây dựng. Nhưng không chỉ có vậy, cuốn sách
dành cho bất cứ ai quan tâm đến các vấn đề
quy hoạch, phát triển kiến trúc đô thị; cuộc
sống xã hội, văn hóa đô thị. Không chỉ những
chuyên gia về kiến trúc và xây dựng cần đọc
cuốn sách này, mà các nhà quản lý đô thị, các
nhà nghiên cứu văn hóa đô thị cũng không thể
không đọc. Với những giá trị mang tính khai
sáng, cuốn sách này cần được phổ biến trong
giới đại học, tức các nhà giảng dạy, nghiên cứu
và sinh viên. Xin nói ngay, do không phải là
người có chuyên môn về các ngành xây dựng
và kiến trúc, nên tôi đọc công trình này dưới
góc nhìn của một người nghiên văn hóa và
con người nói chung.
Như chúng ta biết, triết lý chính là một quan
niệm xương sống có ý nghĩa chỉ đạo, tập hợp
và thống nhất toàn bộ diễn giải và thực hành
của con người về một hoạt động nào đó. Nếu
không có triết lý, mọi suy nghĩ và thực hành
sẽ trở nên hỗn độn, phân tán, manh mún, tùy
tiện. Khi một chương trình, một dự án có triết
lý, tức là có tư tưởng, sẽ có giá trị soi sáng, nhất
quán, mạch lạc và độc đáo. Tác giả Jan Gehl là
người có một triết lý về quy hoạch đô thị, thể
hiện một cách nhất quán, xuyên suốt, chỉ đạo
mọi suy tưởng, diễn giải và đề xuất của ông,
đúng như tên gọi của cuốn sách: “Đô thị vị
nhân sinh”.
“Đô thị vị nhân sinh” - có phải đây là một
cách nói hoa mỹ? Người ta có thể lập luận: đô
thị nào chẳng là đô thị vì con người, cho con
người; không vì/cho con người thì vì/cho cái
gì? Thực ra không đơn giản như vậy. Khi bước
vào chủ nghĩa hiện đại trong quy hoạch đô thị
và kiến trúc từ những năm 50 thế kỷ XX, hầu
hết các đô thị trên thế giới quy hoạch và phát
triển vì và chỉ vì giao thông cơ giới, sau đó
là vì các tòa cao ốc và siêu đô thị. Kết quả là,
càng quy hoạch ưu tiên cho giao thông cơ giới
thì phương tiện giao thông cơ giới ngày càng
tăng, nạn tắc nghẽn giao thông ngày càng
tệ hại, kéo theo vô vàn hệ lụy về an ninh, sức
khỏe, kinh tế, văn hóa, xã hội; cũng thế, càng
vì các công trình, càng dẫn đến một đô thị xa
cách, thiếu thân thiện với con người, thậm chí
không có một cuộc sống đô thị theo đúng
nghĩa. Tất cả đều phụ thuộc vào quan niệm,
triết lý của các nhà quy hoạch. Cho nên, ở
cuốn sách này, ngay từ chương đầu tiên, tác
giả đã bàn đến vấn đề con người trong đô thị,
con người chính là linh hồn đô thị, làm nên
cuộc sống đô thị. Mọi quy hoạch và thiết kế
không vì cuộc sống hằng ngày của con người
đô thị chắc chắn sẽ thất bại. “Đô thị vị nhân
sinh” chính là một triết lý của đô thị, có ý nghĩa
toàn cầu, có khả năng khai sáng và truyền cảm
hứng cho tất cả những ai sống ở đô thị, quan
tâm tới quy hoạch và kiến trúc đô thị.
2. Một cuốn sách nói cho ta biết thế giới
đang quan tâm tới đô thị như thế nào
Thế nào là một đô thị vị nhân sinh? Dựa
trên các quan sát trực quan, thống kê, phân
tích và đặc biệt quan tâm đến việc nghiên cứu
cuộc sống của các cư dân đô thị điển hình trên
toàn thế giới, tác giả cuốn sách đã đưa ra một
mô hình đô thị vị nhân sinh với 4 điểm cốt lõi:
Sống động, An toàn, Bền vững, Lành mạnh.
2.1. “Thành phố sống động” là một đô thị
thực sự có “cuộc sống đô thị”, nơi con người
được đi bộ, đi xe đạp, được tôn trọng, được
tham gia vào các hoạt động đường phố một
cách chủ động, hứng thú và an toàn. Một đô
thị thưa vắng người đi bộ, đạp xe, ít tham
dự vào cuộc sống đô thị một cách hiện sinh;
một đô thị khiến cư dân đóng cửa ở nhà hơn
là muốn ra đường; một đô thị với không gian
quá lớn, kiến trúc quá đồ sộ, khoảng cách di
chuyển quá xa, hai bên đường khép kín và tẻ
nhạt, ít hoặc không có cây xanh đồng nghĩa với
việc quy hoạch ưu tiên cho xe hơi sẽ là đô thị
“chết”, tẻ nhạt, không vì con người, con người
bị đẩy lùi vào hàng thứ yếu. Dĩ nhiên, một đô
thị mật độ dân số cao, trong khi đó quy hoạch
kém, cũng lại là đô thị không chất lượng. Vấn
đề đặt ra ở đây là chất lượng không gian đô
thị. Một quy hoạch không gian từ đường phố,
vỉa hè, quảng trường, nhà ở, công viên, bảo
Số 28 - Tháng 6 - 2019 109
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
tàng, nếu thực hiện tốt, cư dân sẽ có hứng
thú tham gia vào cuộc sống đô thị và chính họ
làm nên một đô thị sống động, một đô thị thực
sự có đời sống hiện hữu.
2.2. “Thành phố an toàn” được hiểu trước
hết là an toàn về giao thông. Từ những năm
50 của thế kỷ trước, sự phát triển và xâm lấn
của xe máy, xe hơi đã tấn công vào đô thị, ngày
càng trở thành nỗi sợ hãi của con người. Tham
khảo từ cuộc sống của các thành phố truyền
thống như Venice (nơi duy trì một chính sách
đã có từ lâu: tất cả các cư dân và du khách đều
đi bộ, một chính sách nhất quán và bền vững
ưu tiên hàng đầu cho chất lượng thành phố),
tinh thần nhất quán của tác giả công trình
nghiên cứu này là khuyến khích và tạo điều
kiện tốt nhất cho cư dân đi bộ và xe đạp, bất
kể đó là ai. Khi chính sách này được thực hiện,
các nghiên cứu và ứng dụng sẽ đầu tư tốt nhất
cho không gian vỉa hè dành cho người đi bộ,
làn đường dành riêng cho người đi xe đạp, giải
quyết xung đột giữa các loại phương tiện Dĩ
nhiên không thể tất cả các cư dân đô thị đều đi
bộ và đi xe đạp, mà quan trọng nhất là duy trì
tốt một tình trạng giao thông hỗn hợp, ưu tiên
tốt nhất cho những người đi bộ và xe đạp, chứ
không phải cho xe cơ giới như lâu nay (từ phân
làn, biển hiệu, chỉ dẫn, trạm đỗ, đến ý thức của
mỗi người). Thành phố Copenhagen hiện nay
đứng hàng đầu thế giới và trở thành mẫu mực
về một thành phố xe đạp, với con số đáng kinh
ngạc: từ năm 2008, đã có đến 37% người làm
tại công sở đi xe đạp [1, tr.107].
Thành phố an toàn còn được hiểu về mặt
an ninh. Mỗi một người trong bất kỳ thời gian
nào khi xuống đường, đi bộ, đi xe đạp trên
không gian đô thị sẽ cảm thấy thanh bình,
được bảo vệ, tin cậy, không rơi vào cảm giác
hoang mang, lo sợ. Điều này không chỉ liên
quan đến an ninh xã hội, mà còn liên quan đến
quy hoạch đô thị: bố trí ánh sáng hợp lý, cấu
trúc địa phận và đường phố mạch lạc, thân
thiện; ngược lại là tình trạng tăm tối, rối loạn,
hoang vắng, cỏ dại, các ngõ ngách u ám
2.3. “Thành phố bền vững” hướng đến
việc đi bộ và đi xe đạp như một hứng thú, tự
nguyện, nó ngược lại với những người chỉ
thích ngồi sau vô-lăng xe hơi và máy tính. Mục
đích của đi bộ và xe đạp là hướng tới hình
thức vận chuyển giá rẻ, yên tĩnh, không gây
ô nhiễm; chống nguy cơ cạn kiệt năng lượng,
tránh phá hủy môi trường, tài nguyên, sức
khỏe; chống ùn tắc giao thông, giảm ô nhiễm
dạng hạt và lượng khí thải carbon Theo lập
luận của tác giả, hình thức đi bộ và xe đạp là
bước quan trọng tiến tới mô hình đô thị bền
vững [1, tr.105]. Tác giả đưa ra con số: Hai làn
đường xe đạp rộng 2m đủ cho 10.000 người
đi xe đạp/giờ; trong khi đó một đường 2 làn di
chuyển hai chiều chỉ phục vụ 1.000 - 2.000 ô
tô/giờ; và một chỗ đỗ xe hơi có thể để 10 chiếc
xe đạp. Một đô thị bền vững là nơi có không
gian đô thị hợp lý, ưu tiên cho đi bộ, xe đạp và
giao thông công cộng, các nhóm xã hội được
tham gia và hưởng lợi bình đẳng về các cơ sở
hạ tầng.
2.4. “Thành phố lành mạnh” là thành phố
có chính sách sức khỏe tốt: chống tình trạng
béo phì, tạo điều kiện khuyến khích cư dân rèn
luyện thể chất hằng ngày, tăng cường đi bộ
và xe đạp, tránh tập trung quá nhiều thời gian
vào tay lái xe hơi và máy tính, hứng thú tham
gia quan sát, cảm nhận, giao tiếp và hưởng thụ
cuộc sống đô thị sống động Giáo sư Jan viết:
“‘Một quả táo mỗi ngày để không phải gặp bác
sĩ’ là một khẩu hiệu sức khỏe đã được tuyên
truyền bấy lâu nay. Còn lời khuyên của ngày
hôm nay cho cuộc sống lành mạnh là hãy đi bộ
10.000 bước mỗi ngày” [1, tr.115].
Vậy để đạt được mô hình đô thị như trên,
giới quy hoạch và phát triển đô thị phải quan
tâm tới những vấn đề gì? Các chương tiếp
theo của cuốn sách đã chỉ ra hai nguyên tắc
tối quan trọng: Thứ nhất, tổ chức một “Đô thị
ngang tầm mắt” (chất lượng cho các quy mô
nhỏ trong không gian đô thị vừa tầm quan sát
nhìn ngắm của con người, đô thị thích hợp để
đi bộ, thích hợp để du khách lưu lại, thích hợp
để gặp gỡ, để thể hiện bản thân, vui chơi và
tập luyện; địa điểm tốt, tỷ lệ đẹp; thời tiết đẹp;
để trải nghiệm thú vị, để thích hợp đi xe đạp);
thứ hai, quy hoạch đô thị tuân thủ trật tự ưu
tiên: cuộc sống con người, không gian và sau
cùng mới là các công trình cụ thể.
Số 28 - Tháng 6 - 2019110
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Rốt cục, yếu tố con người là hạt nhân trung
tâm, làm hệ quy chiếu cho toàn bộ quy hoạch
và xây dựng đô thị trong hôm nay và ngày mai.
Đô thị vì con người, đó là triết lý đô thị, là tinh
thần lan tỏa từ công trình nghiên cứu xuất sắc
của Jan Gehl.
3. Liên hệ đô thị Việt Nam hiện nay và vấn
đề xây dựng văn hóa đô thị
3.1. Một quan sát có tính trực quan
Nước ta nằm trong nhóm các nước đang
phát triển, chịu sức ép của rất nhiều vấn đề:
trình độ và năng lực quản trị xã hội thấp, nạn
tham nhũng và nhóm lợi ích lũng đoạn, gia
tăng dân số, kinh tế chậm phát triển, nạn tàn
phá thiên nhiên, trình độ khoa học kỹ thuật và
công nghệ chưa cao, thu nhập bình quân đầu
người thấp, nền giáo dục hỗn loạn; ý thức về
pháp luật, văn minh văn hóa của người dân
còn nhiều hạn chế Cho nên việc quy hoạch,
xây dựng và phát triển đô thị trở nên hết sức
nan giải. Tuy nhiên, đây là việc cấp thiết, không
thể không làm, cần tiến hành cùng lúc với quy
hoạch ở mọi lĩnh vực khác.
Chúng ta đang thấy các di sản kiến trúc
truyền thống gồm kiến trúc cổ (gốc bản địa)
và kiến trúc cũ (của nước ngoài, chủ yếu thời
Pháp thuộc) đang bị hư hoại hoặc bị con người
phá hủy vì nhiều lý do khác nhau. Chúng ta
đang chứng kiến một tình trạng quy hoạch,
xây dựng và kiến trúc vô tội vạ, chồng lấn,
nham nhở, theo hướng phá nát không gian
- không gian trung tâm và không gian phụ
cận. Các khu đô thị mới có thể quy mô rất lớn,
hoành tráng, nhưng thiếu thân thiện với con
người, các công trình rời rạc, khép kín, không
có giao tiếp; không có khách bộ hành, người
đạp xe; không có những điểm gặp gỡ, vui
chơi, sinh hoạt, chia sẻ đường phố Yếu tố
cuộc sống con người của đô thị không được
coi trọng. Họ chỉ coi trọng các công trình/cụm
công trình riêng lẻ, biệt lập, xa cách với con
người.
Phần lớn các đô thị của chúng ta đang rơi
vào tình trạng bế tắc về giao thông, càng loay
hoay giải quyết lại càng ùn tắc và mức độ tai
nạn chưa hề suy giảm.
Con người đô thị phần lớn lấy xe máy làm
phương tiện chính, người trung lưu trở lên thì
đi ô tô, chỉ có người nghèo đi xe đạp, người dân
càng ngày càng lười đi bộ; nếu muốn đi xe đạp
hoặc đi bộ cũng không được tạo điều kiện về
cơ sở hạ tầng, luôn cảm thấy tai nạn rình rập,
thậm chí có tâm lý sĩ diện hão cho rằng đi xe
đạp là nghèo hèn, đi ô tô mới là sang chảnh
Sống trong đô thị, người dân phải hứng
chịu nhiều thứ: Tắc đường; ô nhiễm (bụi, tiếng
ồn, nguồn nước, nguồn thực phẩm); cảm giác
an toàn, an ninh bị đánh mất; nạn xả rác bừa
bãi, xây dựng vô tội vạ, nhiều di tích cảnh quan
bị tàn phá với ngàn lẻ một lý do. Trên thực tế
là chúng ta chưa xây dựng được một văn hóa
đô thị, trong đó có “văn hóa xe đạp”, “văn hóa
đi bộ”, những khái niệm trở đi trở lại nhiều lần
như một lời kêu gọi khẩn thiết trong công
trình nghiên cứu của Jan.
3.2. Sự nhập cuộc mạnh mẽ
Để xây dựng một văn hóa đô thị hiện đại,
cần phải có một nhận thức chung và một
chương trình hành động căn cơ, cụ thể, kiên
nhẫn và tỉ mỉ của tất cả các thành phần xã hội.
Nhưng trong tình hình cần kíp hiện nay, theo
chúng tôi cần tập trung trước hết vào 4 đối
tượng: Các nhà quản lý, các nhà chuyên môn,
giới truyền thông và nhà trường.
Nhà quản lý là khâu khó nhất, nhưng nếu
làm được sẽ có hiệu quả nhất. Họ sẽ có một
nhận thức tốt về một quy hoạch đô thị vị nhân
sinh, để từ đó quy định thiết chế, tham gia tư
vấn/hoạch định chính sách, thực hành quản
lý, thúc đẩy phát triển. Chỉ khi các nhà quản lý
nhập cuộc mạnh mẽ mới có thể hướng toàn bộ
xã hội vào câu chuyện này được. Nó ngược lại
với thói quan liêu, cửa quyền, nhận thức chậm,
bảo thủ; ngược với tham những và nhóm lợi
ích. Kinh nghiệm quốc tế cho hay, một thành
phố “sống động, an toàn, bền vững và lành
mạnh” phụ thuộc phần lớn vào ông thị trưởng,
vào ý chí, tầm hiểu biết, tình yêu đối với thành
phố đó và tinh thần nhân văn của ông ta.
Nhà chuyên môn đương nhiên phải là
người có chuyên môn giỏi, có nghiên cứu sâu
về cuộc sống thực tiễn, văn hóa bản địa và
khu vực và ý thức nhân văn trong quy hoạch
Số 28 - Tháng 6 - 2019 111
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
một cách trong sáng, vì con người. Có những
quy hoạch do không có nghiên cứu sâu hoặc
hiểu sai về cuộc sống đô thị, dẫn đến một thực
tiễn đô thị mà ở đó con người bị nuốt chửng,
bị xóa đi trong không gian; hoặc ở cực khác,
con người luôn sống trong cảm giác bị đầy
đọa. Một kiến trúc sư đòi hỏi phải tính toán
hết sức bài bản, thậm chí tỉ mỉ không gian và
công trình ở cấp độ vĩ mô và cả vi mô sao cho
tất cả vì cuộc sống của con người, kể cả những
trẻ em, người già, người khuyết tật. Một quy
hoạch đúng và nhân văn sẽ làm cuộc sống nở
hoa trong không gian vật lý đô thị và trong cả
tâm hồn dân chúng.
Vai trò của giới truyền thông ngày càng
trở nên quan trọng, hiểu theo nghĩa họ tham
dự và tác động vào xã hội như một thế lực
hùng mạnh. Nếu truyền thông tích cực, nó
góp phần kiến tạo xã hội. Ngược lại, nó tham
gia hủy hoại xã hội, hủy hoại văn hóa và nhân
tính. Trong công cuộc kiến tạo văn hóa đô thị,
truyền thông phải là lực lượng chung tay thiết
lập nhận thức chung, đánh thức khát vọng tập
thể, ý thức về nghĩa vụ và trách nhiệm công
dân. Đội ngũ các nhà báo chính là lực lượng
quan trọng nhất của hoạt động truyền thông.
Họ lên tiếng phê phán những cái hạn chế, tiêu
cực; vun đắp và lan tỏa những yếu tố tích cực,
truyền cảm hứng cho tinh thần đẹp đẽ của đô
thị vị nhân sinh, của văn hóa đô thị mới.
Cuối cùng là vai trò của nhà trường. Hiện
nay vấn đề sinh thái nhân văn đang được nhà
trường dần chú ý thông qua các nghiên cứu,
thực hành, giảng dạy. Tuy nhiên, vấn đề văn
hóa đô thị hầu như chưa được quan tâm tới.
Phải bắt đầu từ con trẻ, từ học sinh các cấp
tới đại học, sao cho tất cả ý thức được về văn
hóa đô thị. Với học sinh, không nên sa vào lý
thuyết chung chung, mà nên bắt đầu từ giáo
dục hành vi. Làm sao cho chúng hiểu cho
được tính thiết thực của việc bỏ rác vào thùng,
không xả rác bừa bãi; không ngắt hoa, chặt cây
vô tội vạ; biết thích thú đi bộ hay đi xe đạp mỗi
khi đến trường hoặc di chuyển trong phố,
đã là rất có ý nghĩa.
Một công cuộc kiến tạo văn hóa đô thị phải
được đánh thức đồng loạt và được thổi vào đó
một nguồn cảm hứng mạnh mẽ mới có thể
hy vọng hình thành sớm trong nay mai. Như
chính kiến trúc sư, nhà quy hoạch và tư vấn
quy hoạch đô thị nổi tiếng, tác giả của công
trình nghiên cứu này đã nói: “Ta định hình
thành phố - thành phố định dạng ta”. Để hình
thành một đô thị vị nhân sinh đẹp đẽ và đáng
sống, phải cần sự nỗ lực từ chính con người, để
rồi sau đó trái quả đô thị ngọt lành lại sẽ trả ơn
con người, đền bù xứng đáng cho con người.
Thay lời kết
Theo một nghĩa nào đó, có những cuốn sách
hay có thể làm thay đổi thế giới, có thể truyền
cảm hứng mạnh mẽ cho con người. Công trình
“Đô thị vị nhân sinh” chính là một cuốn sách
như vậy. Tháng 4 năm 2019, tác giả cuốn sách,
Giáo sư Jan Gehl đã có những cuộc tiếp xúc với
giới chuyên môn và truyền thông tại Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy chỉ ở mỗi nơi có
một ngày, nhưng ông đã kịp truyền cảm hứng
mạnh mẽ cho giới chuyên môn và một bộ phận
công chúng Việt Nam. Hiện nay, nước ta nằm
trong nhóm các nước đang phát triển, và các
đô thị mới cũng đang phát triển theo. Nếu có
nhận thức tốt và quyết tâm thực hành tốt triết lý
“Đô thị vị nhân sinh”, chắc chắn chúng ta sẽ hạn
chế được những sai lầm trong phát triển đô thị
mà nhiều nước trên thế