Tóm tắt. Bạn đọc và nhà nghiên cứu đều xem truyện cổ tích là đối tượng quen thuộc và
đơn giản đến mức dường như chỉ cần đọc/nghe là hiểu, ngay cả với trẻ em. Nhưng nhiều
cuộc tranh luận về truyện cổ tích vẫn không ngừng diễn ra mà nguyên nhân sâu xa nằm ở
chỗ những đặc trưng cơ bản về sự hoàn thiện cốt truyện cũng chưa được trình bày một cách
tường minh. Trong bài viết này chúng tôi muốn nhấn mạnh đến tính hoàn kết của cốt kể, từ
đó đề xuất cách đọc truyện cổ tích.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 341 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Từ đặc trưng hoàn kết về cốt truyện, đề xuất cách đọc truyện cổ tích, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2015-0009
Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 3, pp. 52-56
This paper is available online at
TỪ ĐẶC TRƯNG HOÀN KẾT VỀ CỐT TRUYỆN,
ĐỀ XUẤT CÁCH ĐỌC TRUYỆN CỔ TÍCH
Nguyễn Việt Hùng
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Bạn đọc và nhà nghiên cứu đều xem truyện cổ tích là đối tượng quen thuộc và
đơn giản đến mức dường như chỉ cần đọc/nghe là hiểu, ngay cả với trẻ em. Nhưng nhiều
cuộc tranh luận về truyện cổ tích vẫn không ngừng diễn ra mà nguyên nhân sâu xa nằm ở
chỗ những đặc trưng cơ bản về sự hoàn thiện cốt truyện cũng chưa được trình bày một cách
tường minh. Trong bài viết này chúng tôi muốn nhấn mạnh đến tính hoàn kết của cốt kể, từ
đó đề xuất cách đọc truyện cổ tích.
Từ khóa: Tính hoàn kết, cách đọc, truyện cổ tích.
1. Mở đầu
Truyện cổ tích ra đời từ khi nào, chúng bắt đầu ra sao và kết thúc thế nào trong đời sống
cộng đồng? Những câu hỏi tưởng chừng đơn giản như vậy nhưng lại rất khó trả lời một cách chính
xác. Truyện cổ tích bắt đầu từ cái “ngày xửa ngày xưa”, lâu đời như chính bản thân ngôn ngữ, thậm
chí những hình vẽ sớm nhất trong các hang động, đến những họa tiết gợi lên từ cuốn sách về cái
chết của người Ai Cập có thể là những kí hiệu sớm nhất cho thấy một phần của hình thức tự sự
và cấu trúc nghi lễ của văn hóa nguyên thủy dần dần chuyển hóa, kí hiệu hóa, mô hình hóa thành
những truyện kể dân gian [3]. Tuy nhiên sinh mệnh nghệ thuật của truyện cổ tích vẫn tiếp tục trong
chiều dài lịch sử và vận động ở một không gian rộng lớn, kết nạp những yếu tố sinh hoạt, xã hội
thời đại tạo nên những dị bản mới [2, 7, 9]. Vì thế có những thay đổi cách kết thúc của tác phẩm
này hay khác, như trường hợp bản kể Tấm Cám trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, dẫn đến những
cuộc tranh luận không ngừng. Trong bài viết này, chúng tôi xuất phát từ đặc trưng cơ bản và cốt
lõi nhất của thể loại truyện cổ tích, lí giải những hiện tượng tranh luận gần đây: Truyện cổ tích đã
hoàn tất hay chưa hoàn tất về phương diện cốt truyện? Để từ đó chúng tôi đề xuất cách đọc truyện
cổ tích.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Quan niệm về cốt kể và sự biến đổi truyện cổ tích
Ở Việt Nam, trong một chuyên khảo thuộc loại sớm nhất về truyện cổ tích (Khảo luận về
truyện Thạch Sanh), tác giả Hoa Bằng thông qua nghiên cứu các dị bản đã chú ý đến vấn đề cốt
Ngày nhận bài: 25/12/2014 Ngày nhận đăng: 10/4/2015
Liên hệ: Nguyễn Việt Hùng, e-mail: viethungsphn@yahoo.com
52
Từ đặc trưng hoàn kết về cốt truyện, đề xuất cách đọc truyện cổ tích
truyện và sự biến đổi cốt truyện. Ông thấy rằng nguồn gốc truyện Thạch Sanh là “do ảnh hưởng
kinh Phật truyền từ Ấn Độ đi với nhiều nơi như Cao Miên và Việt Nam. Hoa Bằng cho rằng “tác
giả truyện Thạch Sanh bản ngoài Bắc lượm lặt thu dùng để kết hợp với cốt truyện của nó cho sự
tưởng tượng thêm phong phú và tình tiết được thêm màu sắc xứ sở hơn” [1;23]. Như vậy, trong
quan niệm của ông, tác phẩm có thể có nhiều dị bản, thể hiện màu sắc địa phương, song cốt truyện
thì không thay đổi.
Tác giả Nguyễn Bích Hà trong giáo trình đại học, đặc điểm đó được khái quát thành một đề
mục về đặc trưng truyện cổ tích “2. Quá trình hoàn thiện truyện cổ tích là quá trình biến đổi không
ngừng” [4;67]. Tác giả cho rằng “đời sống của tác phẩm văn học dân gian trong đó có truyện cổ
tích dài vô tận và có thể biến đổi vô cùng” [4;80]. Ở mỗi thời đại khác nhau, do sự phát triển của
xã hội và những nhu cầu mới của dân chúng mà mỗi thể loại, thậm chí mỗi tác phẩm có thể diễn
ra những biến đổi bộ phận hoặc biến đổi phần lớn nội dung của nó” [4;80], “tính chất thời đại đã
chi phối cách lựa chọn tình tiết truyện cổ. Ngay cả khi truyện dân gian đã được văn bản hóa thì nó
vẫn có thể biến đổi để phù hợp với thời đại mà nó đang được lưu truyền” [4;82].
Trong công trình về thi pháp thể loại văn học dân gian, Đỗ Bình Trị nhận xét “những nét
chung của kết cấu truyện cổ tích thần kì của các dân tộc, chẳng hạn như: tính chất trọn vẹn của câu
chuyện kể về số phận nhân vật chính; tính chất phiêu lưu của nhân vật chính. . . [7;18]. Ông cho
rằng những câu kết thúc như “ngày nay”, “kể từ đó người ta gọi. . . ” là sự thêm vào của dân gian –
của người kể để tạo mối liên hệ với thực tại. Từ đó chúng tôi thấy rõ một điều trong cách diễn đạt
của ông: lời kể có thể tiếp diễn nhưng cốt truyện đã kết thúc từ quá khứ.
Trong giáo trình Sáng tác thơ ca dân gian Nga, Nô-vi-cô-va nhận định: “Thường thì mỗi
người kể chuyện mới lại đưa ra thêm một dị bản mới của cùng một cốt truyện: trong các dị bản thì
các tư tưởng và sơ đồ chung của cốt truyện là giống nhau, các mô-típ chung được nhắc lại, song
về các chi tiết thì không có sự giống nhau” [5;271]. Như vậy, tác giả phân định rõ ràng những dị
bản của một cốt truyện là những thứ mới mẻ, sinh động mà người kể chuyện đem lại cho mỗi buổi
kể chuyện, nhưng sơ đồ cốt truyện là giống nhau. Sự nhấn mạnh của tác giả về quá trình sáng tạo
không ngừng của truyện cổ tích ở phương diện diễn xướng, ở sự lưu truyền truyện cổ tích trong
không gian và thời gian. Tuy nhiên, tác giả cũng giới thuyết với bạn đọc về sự thay đổi những yếu
tố trọng tâm, cốt lõi của truyện cổ tích sẽ dẫn đến những dạng cổ tích mới: “Cuộc sống của truyện
cổ tích là một quá trình sáng tạo không ngừng. Ở mỗi thời địa mới lại diễn ra một sự đổi mới về
bộ phận hoặc đổi mới hoàn toàn của truyện cổ tích, khi sự đổi mới có liên quan đến việc sắp đặt
lại những trọng tâm, tư tưởng cốt truyện thì sẽ nảy sinh một dạng bản cổ tích mới [5;271].
Tác giả đi đến kết luận: “Nếu căn cứ vào tài liệu ghi chép truyện cổ tích Nga thế kỉ XVIII
– XIX thì thấy các đại lượng bất biến là khuynh hướng tư tưởng của truyện cổ tích, là kết cấu của
nó, các chức năng của nhân vật và những công thức kể chuyện, còn những đại lượng biến đổi thì
gắn với cá tính người kể chuyện” [5;272].
Trong công trình nghiên cứu chuyên biệt về truyện cổ tích, nhà nghiên cứu V.Prôp mô tả
ba giai đoạn hình thành cốt truyện cổ tích: giai đoạn cổ xưa khi truyện cổ tích bắt nguồn từ những
nghi lễ; giai đoạn hai là giai đoạn thần thoại, khi những hình thức nghi lễ chuyển hóa thành các
biểu tượng thần thoại; giai đoạn ba là giai đoạn cổ tích, nhân vật không phải thần mà là người,
[8;67,68], từ đó ông khẳng định “một số nét của truyện thay đổi nhưng lõi cốt thì vẫn còn lại”
[8;68]. Trong phần viết về Những sự chuyển hóa của truyện cổ tích thần kì, Prôp thấy được rằng
những yếu tố sinh hoạt (thực tại) có quan hệ khăng khít với truyện cổ tích và “vai trò của sinh hoạt
trong các sự chuyển hóa của truyện cổ tích là rất to lớn. Sinh hoạt không đủ sức phá hủy cấu trúc
53
Nguyễn Việt Hùng
chung của truyện cổ tích. Song sinh hoạt cung cấp chất liệt cho sự thay thế chất liệu cũ bằng chất
liệt mới với những kiểu biểu hiện hết sức đa dạng” [8;561]. Ông cũng đã đưa ra nhiều dạng chuyển
hóa: mở rộng, giảm bớt, làm hỏng, chuyển hóa thành cái đối lập, tăng cường và suy giảm. . .
Gần đây, trong bài viết về Sáng tạo và truyền thống của truyện cổ tích (Creative and
traditional in fairy tale), Neil Philip đã nhắc lại công trình kinh điển của Axel Olrik (“Các quy
tắc tự sự trong truyện kể dân gian”-NVH), rằng “Sự biến đổi là điểm cốt lõi của truyện cổ tích và
truyện cổ tích đã biến đổi không ngừng bản thân chúng trong suốt lịch sử cũng như sự thay đổi của
thuật giả kim. Luận điểm đầu tiên mà Olrik chỉ ra là cơ chế tự hoàn thiện mà truyện cổ tích duy
trì cấu trúc bên trong của chúng. Tiểu luận của Olrik cũng lần đầu tiên chỉ ra truyện cổ tích như
một thể loại có cấu trúc chặt chẽ và quả thật cấu trúc chặt chẽ đó không thể phá vỡ mà không làm
mất đi tính trọn vẹn của câu chuyện” [2;40]. Cuối cùng, tác giả khẳng định “truyện cổ tích là câu
chuyện đã hoàn thành” [NVH dịch,2;40].
Như vậy, rõ ràng các tác giả ngoài nước và trong nước đã ý thức rất rõ về đặc trưng quan
trọng của truyện cổ tích là quá trình hình thành và hoàn thiện truyện cổ tích đã kết thúc ở thời quá
khứ. Những sự biến đổi về bản kể, lời kể chỉ diễn ra ở những chi tiết không trọng tâm, không cốt
lõi của cốt truyện. Vì thế, trong mỗi giáo trình đại học, hay mỗi chuyên luận về truyện cổ tích,
chúng ta cần phân định và giải thích cặn kẽ về điều này, tránh sự ngộ nhận từ phía người đọc. Như
nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên đã dẫn ra trường hợp tranh luận truyện Tấm Cám kéo dài trong
nhiều năm như minh chứng tiêu biểu cho việc chúng ta chưa thấy được đặc trưng cơ bản và quan
trọng nhất của truyện cổ tích: “Công việc bình luận ý nghĩa của truyện Tấm Cám nói chung và của
đoạn kết nói về cái chết của mẹ con Cám nói riêng, thường dựa vào những văn bản cụ thể. Trong
khi đó thì những văn bản đó lại chỉ là những biến thể khác nhau của truyện, hình thành ở từng mốc
nhất định của cả quá trình biến đổi lâu dài, phức tạp từ xưa đến nay. Tính chất cổ xưa của truyện
Tấm Cám không chỉ do đề tài, cốt truyện và các mô-típ của nó có nguồn gốc từ những thực tại và
quan niệm về thực tại của con người “ngày xửa ngày xưa” chứ không phải là sự phản ánh trực tiếp
các sự kiện lịch sử - xã hội của các thời kì lịch sử sau này về những sự kiến ấy” [3;344].
2.2. Đọc truyện cổ tích như là những cốt kể đã hoàn tất
Trước hết, chúng ta cần nhận thức được rằng truyện cổ tích đã hoàn thành về cốt truyện,
tức là có sự kết thúc ấn định theo quan điểm của nhân dân: kết thúc có hậu, người có công được
thưởng, người có tội bị trừng phạt. Vì thế truyện cổ tích là câu chuyện về sự thưởng – phạt công
bằng theo quan điểm của nhân dân “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”. Vận động trong không gian và
thời gian, truyện cổ tích có thể thay đổi về lời kể, thay đổi lời mở đầu, lời miêu tả trong truyện
nhưng cốt kể vẫn phải được bảo lưu. Những cố gắng thay đổi về kết cấu truyện cổ tích (ở những
mô-típ cơ bản và kết thúc) sẽ hoặc phá vỡ tính chỉnh thể hoặc làm biến đổi, méo mó chủ đề của tác
phẩm.
Thứ hai, đặc trưng về sự hoàn thành của cốt truyện cổ tích liên quan chặt chẽ với đặc trưng
về tính chất hư cấu, kì ảo của cốt truyện cổ tích. Điều này rất quan trọng đối với tâm lí tiếp nhận
truyện cổ tích ở người đọc: người ta chấp nhận mọi điều vô lí, những thứ không bao giờ có thật
trong cuộc đời mà chỉ có thể thuộc về thế giới nghệ thuật của cổ tích. Đó là việc một cô thôn nữ
được lấy nhà vua, một chàng mồ côi đốn củi lấy được công chúa, người nghèo khổ được làm vua,
người xấu xí trở thành đẹp đẽ, con người đi lên trời, xuống thủy cung, cưỡi trên tấm thảm biết
bay,... thậm chí con người có cả cuộc sống trường sinh, con người không có tuổi, không già đi,
không chết đi trong các câu chuyện kể. Để thực hiện được điều đó, thực thi triết lí và công bằng
54
Từ đặc trưng hoàn kết về cốt truyện, đề xuất cách đọc truyện cổ tích
theo tư duy nghệ thuật của tác giả dân gian mà câu chuyện luôn có hậu, luôn có thế lực thần kì xuất
hiện để trợ giúp cho con người. Cũng vì thế những chuyện như chết đi sống lại, những sự hành
xác, những chuyến phiêu lưu vào thế giới người chết... được xem là những mô-típ quen thuộc, bình
thường trong truyện cổ tích, phù hợp với đặc trưng tư duy thể loại và thời đại cổ tích. Tất cả những
sự phi lí trong truyện cổ tích để nhằm hướng tới ước mơ rất thực tế cho con người: hạnh phúc và
sự công bằng.
Vì thế, khi nắm vững những đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích thì những câu hỏi đại loại
như: Tại sao Sọ Dừa biết trước mà đưa cho vợ một con dao, một hòn đá đánh lửa và hai quả trứng
gà? Tại sao Thạch Sanh có niêu cơm thần kì?... sẽ không cần thiết. Vì mỗi người đọc cần đắm
mình trong “trường cổ tích”, thấm nhuần tinh thần, không khí của cổ tích đem lại cho chúng ta.
Cũng vì thế một kết thúc quen thuộc của Tấm Cám là việc cô Tấm giết cô Cám, làm mắm gửi
cho mụ dì ghẻ vẫn tồn tại qua các thời đại và sự tiếp nhận một kết thúc như vậy được xem là bình
thường, không đem lại cảm giác ghê sợ hay thái độ không đồng tình với cô Tấm. Ngược lại, khi
cái ác bị đền tội, đứa trẻ nào cũng thấy hả hê và tin tưởng vào sự công bằng, khi cái thiện được
bảo vệ, cái ác bị trừng phạt, điều mà cuộc đời thực không thể có thì đã diễn ra, đã có ở thế giới
“ngày xửa, ngày xưa”. Những cố gắng về sự “cải biên” truyện cổ tích như trong một tiểu phẩm
Cây khế, tác giả đã để cho người anh sống lại, cùng về chung sống với người em, với ý tưởng về
việc anh em hòa thuận, tìm một cách kết thúc có hậu cho câu chuyện đã làm mất đi chủ đề của tác
phẩm. Truyện Tấm Cám ở Ngữ văn 10 cũng mang một kết thúc khác so với bản kể sưu tầm xuất
bản truyện dân gian. Vì thế việc sửa chữa để tìm một văn bản cho phù hợp với thời đại của chúng
ta là không cần thiết vì bản thân học sinh sẽ biết và tìm đến với bản kể truyền thống, hơn nữa việc
đưa đến một sự kết thúc khi sửa chữa truyện cổ tích sẽ làm mất đi bản chất của thể loại, chủ đề của
câu chuyện. Một minh chứng rõ rệt là truyện Ông lão đánh cá và con cá vàng, khi Pu-skin đưa yếu
tố thời đại ẩn dụ trong hình tượng người vợ tham lam, dốt nát để chuyển tải tinh thần phê phán xã
hội đương thời thì cốt truyện đã biến đổi. Từ cốt kể dân gian “cứu vật vật trả ơn”, tác giả đã thay
đổi cốt truyện, người làm ơn không được hưởng hạnh phúc, vai trò nhân vật trung tâm là ông lão
đã chuyển dịch sang bà lão, với hàm ý: người dốt nát, tham lam sẽ đẩy cộng đồng vào hoàn cảnh bi
đát. Tính chất cổ tích của truyện đã bị phai nhạt và truyện mang dáng dấp rõ nét sáng tác văn học
của Pu-skin. Khi tiếp nhận truyện cổ tích, đòi hỏi chúng ta phải nhận biết rõ ràng tính chất “ngày
xửa ngày xưa”... để khẳng định bản chất của truyện cổ tích là câu chuyện tưởng tượng, kì ảo, đem
đến cho người đọc thế giới của tất cả những điều vô lí. Từ đó chúng ta “không nên bằng cách bình
luận văn học và thậm chí cả bằng cách “sửa chữa” truyện cổ tích theo hướng hợp lí hóa cho phù
hợp với tư duy lô-gic của con người hiện nay mà làm mất đi cái vô lí ấy của truyện cổ tích. Vấn đề
là giải thích được cái vô lí ấy, phát hiện ra cái hợp lí của bản thân truyện cổ tích” [3;344].
Tác giả Chu Xuân Diên đã từng nhấn mạnh đến việc tiếp nhận truyện cổ tích dựa trên tâm
lí tiếp nhận của người đọc/nghe về “không khí cổ tích”, “trường cổ tích”. Mỗi người tiếp nhận cổ
tích cần ý thức được câu chuyện “ngày xửa ngày xưa”, tức là câu chuyện hoàn toàn “tưởng tượng,
kì ảo, đem đến cho người đọc thế giới của tất cả những điều vô lí”. Từ đó, chúng ta “không nên
bằng cách bình luận văn học và thậm chí cả bằng cách “sửa chữa” truyện cổ tích theo hướng hợp
lí hóa cho phù hợp với tư duy lô-gic của con người hiện nay mà làm mất đi cái vô lí ấy của truyện
cổ tích. Vấn đề là giải thích được cái vô lí ấy, phát hiện ra cái hợp lí của bản thân truyện cổ tích”
[3;344]. Chúng tôi bổ sung thêm ý kiến của M.Go-rki để thấy được tâm lí đón nhận của người
đọc/nghe truyện cổ tích: “. . . càng lớn lên tôi càng thấy rõ và đáng kể về sự khác nhau giữa truyện
dân gian và cuộc đời bằng lặng, buồn chán, than vãn đáng phàn nàn. . . truyện dân gian đã mở ra
55
Nguyễn Việt Hùng
trước mắt tôi sự sáng sủa của một cuộc sống khác.” [9;141]. Thế giới đó là thế giới mà tất cả các
nghệ nhân dân gian, người kể chuyện cổ tích Nga đã thẳng thắn thừa nhận: “Câu chuyện tôi kể đến
đây là hết rồi, không thể bịa đặt thêm được nữa. Nhưng trong đám cưới của Ivan và công chúa, tôi
là người dự tiệc, tôi đã uống rất nhiều rượu pha mật ong. Đến bây giờ, những giọt mật ong vẫn còn
đọng long lanh trên râu tôi”...
3. Kết luận
Mỗi văn bản truyện dân gian dẫu là bản truyền miệng hay bản in đều trải qua quá trình vận
động, biến đổi trong không gian và thời gian, có bối cảnh tồn tại, diễn xướng của riêng nó mà mỗi
lần diễn xướng tạo ra những diện mạo khác nhau. Người tiếp nhận cũng chịu những sự chi phối
của tâm lí, lối sống, thói quen, chuẩn mực thời đại. Tuy nhiên một tâm thế tiếp nhận truyện cổ tích
không phải dựa trên những khuôn khổ hay góc nhìn hiện tại mà cần đặt những sáng tác dân gian
vào bối cảnh, thời đại ra đời của nó. Đồng thời cần xác định quan niệm mang tính nguyên tắc về
tính lịch sử của thể loại, tính toàn vẹn, hoàn kết của tác phẩm thì mới tránh khỏi những áp đặt và
ngộ nhận. Mỗi truyện cổ tích bắt đầu bằng cái “ngày xửa ngày xưa” và kết thúc của nó cũng ở ngay
thời điểm đó, vì thế đến với truyện cổ tích chúng ta cũng cần một tâm thế trở về thế giới cổ tích đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hoa Bằng, 1957. Khảo luận về truyện Thạch Sanh. Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.
[2] Hilda Ellis Davidson and Anna Chaudhri editors, first published 2003. A companion to the
fairy tales. D.S.Brewer, Cambridge, p39-57.
[3] Chu Xuân Diên, 1989. Truyện cổ tích trong con mắt các nhà khoa học. Đại học Tổng hợp Tp
Hồ Chí Minh.
[4] Nguyễn Bích Hà, 2008. Giáo trình văn học dân gian Việt Nam. Nxb Đại học Sư phạm, Hà
Nội.
[5] A.M.Nôvicôva, 1978. Sáng tác thơ ca dân gian Nga, tập 1. Nxb Đại học và trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội.
[6] Vũ Anh Tuấn chủ biên, 2012. Giáo trình văn học dân gian Việt Nam. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[7] Đỗ Bình Trị, 1999. Thi pháp các thể loại văn học dân gian. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[8] Tuyển tập Prôp, tập 2, 2004. Nxb Văn hoá Dân tộc và Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, Hà Nội.
[9] Hồ Sĩ Vịnh, 1986. Gorki với văn nghệ dân gian, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
ABSTRACT
Based on fairy tale’s main characteristic to suggest how to read a fairy tale
Fairy tales are simple, capable of being understood by children. But what do we mean when
we speak of fairy tales? Recently we have some discussions on fairy tales’s meaning and structure
because we don’t know their main characteristics. Have fairy tales been completed or not yet? In
this article I intend to suggest that the fairy tales themselve have done and how to read a fairy tale.
Keywords: The completed, how to read, fairy tales.
56