Tóm tắt: Hán Nôm là chữ Hán và chữ Nôm được
người Việt sử dụng trong suốt chiều dài lịch sử của dân
tộc, nhờ đó mà đã để lại cho ngày nay một kho tàng di
sản Hán Nôm đồ sộ và quý giá, trong đó có từ Hán Việt
và văn hóa Hán Nôm.
Bài viết này giới thiệu khái quát về từ Hán Việt trong
tiếng Việt và di sản văn hóa Hán Nôm, cũng như vấn
đề giảng dạy tiếng Việt và văn hóa Hán Nôm trong nhà
trường hiện nay.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 329 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Từ Hán Việt trong tiếng Việt và văn hóa Hán Nôm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiu ban 4: Văn hóa trong hot đng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp
636
TỪ HÁN VIỆT TRONG TIẾNG VIỆT VÀ VĂN HÓA HÁN NÔM
Đinh Kh
c Thuân
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Tóm t
t: Hán Nôm là chữ Hán và chữ Nôm được
người Việt sử dụng trong suốt chiều dài lịch sử của dân
tộc, nhờ đó mà đã để lại cho ngày nay một kho tàng di
sản Hán Nôm đồ sộ và quý giá, trong đó có từ Hán Việt
và văn hóa Hán Nôm.
Bài viết này giới thiệu khái quát về từ Hán Việt trong
tiếng Việt và di sản văn hóa Hán Nôm, cũng như vấn
đề giảng dạy tiếng Việt và văn hóa Hán Nôm trong nhà
trường hiện nay.
Abstract: Sino-Nom is made by Sino and Nom
letters and used by Vietnamese throughout the history
of the nation. This has left a bulky and valuable
heritage treasure of Sino-Nom including Sino-
Vietnamese words and Sino-Nom culture.
This article introduces an overview of Sino-
Vietnamese vocabulary in the Vietnamese and and
Sino-Nom culture in colleges and universities.
1. Khái quát về từ Hán Việt trong tiếng Việt
Chữ Hán và tiếng Hán được du nhập vào Việt
Nam từ thời Bắc thuộc ở những năm đầu Công
nguyên. Sau đó, chữ Hán tiếp tục được người Việt
sử dụng làm văn tự của mình. Khoa thi chữ Hán
cuối cùng ở Việt Nam mặc dù được tổ chức vào
năm 1919, song việc học tập, ghi chép bằng chữ
Hán vẫn kéo dài đến trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945, đành rằng phạm vi và mức độ có thu
hẹp hơn nhiều so với trước. Song hành với chữ
Hán là chữ Nôm được người Việt Nam sử dụng
trong suốt tiến trình lịch sử. Nhờ đó mà đã để lại
một kho tàng di sản Hán Nôm đồ sộ và quý giá.
Một trong những thành phẩm của kho tàng di sản
Hán Nôm này là từ Hán Việt trong tiếng Việt và
văn hóa Hán Nôm trong di sản văn hóa dân tộc.
Người Việt Nam tiếp thu tiếng Hán và chữ Hán,
đồng thời đã Việt hóa nhiều từ của tiếng Hán
thành từ tiếng Việt, gọi là từ Hán Việt. Có rất
nhiều từ Hán Việt đã đi vào trong từ vựng của
tiếng Việt. Sự phát triển của tiếng Hán ở Việt
Nam trong thời kỳ Bắc thuộc (trước thế kỷ thứ X)
song song với sự phát triển của tiếng Hán ở chính
Trung Quốc thời đó. Từ năm 938, bằng chiến
thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền, Việt Nam đã
độc lập và không còn lệ thuộc vào phương Bắc
nữa, nhưng ngôn ngữ vẫn còn bị ảnh hưởng của
tiếng Hán. Sau ngày giành được độc lập, mặc dù
tiếng Hán là ngôn ngữ được sử dụng chính thức,
nhưng đã phát triển theo hướng khác với sự phát
triển tiếng Hán ở Trung Quốc. Tiếng Hán vẫn tiếp
tục được dùng và phát triển, nhưng cách phát âm
các chữ Hán lại theo cách phát âm của người Việt,
nên chúng ta có âm Hán Việt. Do nhu cầu phát
triển của tiếng Việt, tiếng nói của dân tộc, người
Việt Nam đã sử dụng chữ Hán để tạo ra chữ viết
cho chính mình. Vì thế, chữ viết của người Việt
dựa trên chữ Hán đã ra đời.
Từ Hán Việt không chỉ góp phần làm cho tiếng
Việt phong phú thêm về số lượng từ vựng mà còn
làm phong phú thêm các sắc thái ý nghĩa trừu
tượng, sắc thái biểu cảm trong phong cách. Bởi lẽ
những yếu tố tiếng Hán khi du nhập vào tiếng Việt
thành từ Hán Việt không những được Việt hóa về
âm đọc mà được Việt hóa cả ý nghĩa và sắc thái
biểu cảm, tạo nên những đặc tính mới mà trong
nghĩa gốc của từ Hán không có.
Từ Hán Việt chiếm tỉ lệ lớn trong từ vựng tiếng
Việt hiện nay. Thể hiện nhiều lớp từ khác nhau,
như một số trường hợp sau:
- Lớp từ đã Việt hóa: cổ Hán Việt: chè (trà),
tìm (tầm), mùa (vụ), mùi (vị). Việt hóa ngữ âm:
gan (can).
- Lớp từ có yếu tố Hán Việt được hình thành
trong lòng tiếng Việt kết hợp với 1 hay 2 yếu tố
thuần Việt, như: học trò, nhà giáo, chung cuộc.
Từ thuộc ngôn ngữ đồng văn: cán bộ, phục vụ,
đại bản doanh, điều chế (nguồn gốc từ Nhật Bản).
Phiên âm Hán Việt từ chữ Hán: châu Âu, ba lô,
Mạc tư khoa. Nguồn gốc từ chữ Phạn: bát nhã, xá
lị, Niết bàn, Bồ đề.
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
637
Sản sinh yếu tố mới trong tiếng Việt do kết hợp
từ Hán Việt, như: y sĩ, bộ đội, công an, giáo viên,
đồng chí, thập kỷ, vĩ mô, vi tính.
Thuật ngữ Hán Việt có ưu thế mạnh khi sử
dụng không thể thay từ thuần Việt, như: bình luận,
thẩm mỹ, di truyền, lạm phát, thặng dư, môi sinh.
Thuật ngữ Hán Việt thuộc phong cách viết như
bác học, trang trọng như phu nhân/vợ, công
chúa/con gái,...
Thuật ngữ Hán Việt có ưu thế sử dụng khi là từ
Hán Việt mà tiếng Việt không có từ thay thế,
chẳng hạn các từ: đạo đức, văn hiến, xã hội, kinh
tế, nhân dân, tổ quốc,...
Do tính chất cố định, đa nghĩa và trừu tượng
của từ Hán Việt, mà tiếng Việt được phong phú
thêm. Trong kho từ vựng tiếng Việt, thì từ Hán
Việt không những không thể bỏ đi được, mà
ngược lại còn là kho dự trữ ứng phó khái niệm
mới như vi mô, sinh quyển, hóa thân, hoàn vũ,
kích cầu,... Đồng thời còn thường trực tạo ra từ
mới: học đường - ma túy học đường, nhà đất - địa
ốc, xâm thực (sạt lở, xói mòn) - sóng biển làm lở,
lâm tặc, đinh tặc, v.v..
Đó là ưu thế và lợi ích do từ Hán Việt góp
phần làm phong phú hơn từ tiếng Việt. Trái lại,
cũng có những trở ngại khi sử dụng từ Hán Việt.
Đó là trường hợp một số từ ghép Hán Việt vào
tiếng Việt đã biến đổi ý nghĩa vốn có của chúng,
sắc thái tu từ cũng thay đổi, chẳng hạn như:
Từ Hán Việt Nghĩa gốc Hán Nghĩa được hiểu trong tiếng Việt
tử tế tỉ mỉ tốt bụng
khốn nạn khó khăn xấu xa
thiết tha gọt mài tình cảm
đáo để đến cùng xấu
vấn nạn vặn hỏi lẽ khó khăn vấn đề nan giải (như vấn nạn tham nhũng)
Từ Hán Việt giống nhau ý nghĩa thuần Việt,
nhưng sắc thái biến cải, như: chết-hy sinh/tạ thế-từ
trần, xác chết/thi hài, giặc lái Mỹ/phi công Mỹ.
Trong tiếng Việt còn có không ít thành ngữ
Hán Việt, trong đó có khá nhiều thành ngữ sử
dụng các điển cố văn học, là các tích truyện xưa
có giá trị giáo dục và ý nghĩa lịch sử sâu sắc.
Chẳng hạn thành ngữ “Mài sắt nên kim”, vốn
được diễn dịch từ thành ngữ “Ma chử thành
châm” (Mài chầy nên kim) của Trung Quốc.
Thành ngữ này có xuất xứ từ truyện xưa: Lý Bạch
hồi nhỏ rất lười học, ham chơi. Một buổi đi chơi
thấy một bà lão suốt ngày ngồi cặm cụi cầm chiếc
chày sắt mài đi mài lại. Lý hỏi làm thế để làm gì,
bà lão trả lời rằng, mài cho thành chiếc kim khâu.
Nhân đó, Lý Bạch tỉnh ngộ và chăm chỉ học hành,
về sau trở thành nhà thơ lớn của Trung Quốc cổ đại.
Thành ngữ Hán Việt thường được sử dụng
nguyên bản từ gốc Hán nếu đó là thành ngữ có
những từ Hán Việt tương đối dễ hiểu, phổ thông
với đa số, như tâm đầu ý hợp, bách chiến bách
thắng, chiêu hiền đãi sĩ, vạn sự khởi đầu nan,
trường sinh bất lão, vô danh tiểu tốt, tứ hải giai
huynh đệ, tham quyền cố vị, v.v..
Cũng không hiếm khi thành ngữ Hán Việt
được dịch nghĩa để trở thành thành ngữ Việt, hoặc
thành ngữ Hán Việt ngẫu nhiên trùng nghĩa với
một thành ngữ do người Việt sáng tạo. Những
thành ngữ Hán Việt chuyển hóa thành thành ngữ
thuần Việt tuy thường xuyên được sử dụng trong
tiếng Việt, nhưng nếu không dịch ra thì rất khó
hiểu, trúc trắc về mặt ngôn từ, chẳng hạn: Kính
chẳng bất phiền, nghĩa là Cung kính chẳng bõ
phiền; Cung kính bất như tòng mệnh, nghĩa là
Cung kính không bằng tuân lệnh; Tri kỉ tri bỉ,
nghĩa là Biết mình biết người, v.v..
Những đặc điểm trên về từ Hán Việt vừa mang
lại lợi ích to lớn cho tiếng Việt, song cũng để lại
biết bao trở ngại cho việc sử dụng tiếng Việt, nhất
là việc giảng dạy, học tập tiếng Việt, cũng như
lịch sử văn hóa truyền thống Việt Nam, khi mà
chữ Hán đã lùi xa vào dĩ vãng.
Tiu ban 4: Văn hóa trong hot đng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp
638
2. Từ Hán Việt trong sách vở và giao lưu
hàng ngày
Lượng từ Hán Việt xuất hiện nhiều trong sách
vở, kể cả trong sách giáo khoa dạy tiếng Việt và
dạy văn cho học sinh người Việt và người nước
ngoài, đồng thời xuất hiện khá phổ biến trong giao
tiếp hàng này. Tuy nhiên, không phải trường hợp
nào cũng được giải thích đầy đủ, đúng với ý nghĩa
của nó. Xin điểm ra một vài trường hợp sau đây.
Từ Hán Việt trong sách giáo khoa được đề cập ở
đây không chỉ ở bậc phổ thông trung học mà còn ở
cả bậc phổ thông cơ sở. Từ Hán Việt không phải chỉ
xuất hiện ở bài văn, thơ chữ Hán mà ngay trong
bài thơ văn tiếng Việt.
Chẳng hạn, sách Văn học lớp 6 (Phổ thông cơ
sở) tập 1 trích giảng bài “Dế mèn phiêu lưu kí” có
tới 372 từ Hán Việt. Các từ Hán Việt thường xuất
hiện các trường hợp sau:
- Các từ đồng âm: chư quân (các ông, các ngài,
quân đội, chư hầu), thiên tư (lệch theo tình cảm
riêng, tính chất sinh ra vốn có).
- Các từ liên hệ đến điển tích, điển cố, phong
tục xưa: thu không, tang hải, can qua, lữ thứ, quan
lang, thủ xướng.
- Các câu cách ngôn, thành ngữ Hán Việt: nhất
nhật tại tù, thâm sơn cùng cốc, khổ tận cam lai,...
Việc giải thích những từ ngữ này không hề đơn
giản. Chính vì thế mà học sinh từng hiểu sai dẫn
đến làm bài lạc đề. Đó là từ cam lai trong khổ tận
cam lai, đã bị nhầm lẫn sang thuật ngữ cam lai,
cam ghép. Canh gà Thọ Xương, cũng bị bàn luận
thành món canh thịt gà của làng Thọ Xương, thì
thật quả là không thể không suy nghĩ.
Ngoài ra là không ít từ tiếng Việt thường dùng,
nhưng rất khó hiểu như: vong quốc, ai hoài, nhũng
lạm. Trường hợp khác, cũng rất khó giải thích
như: lâu đài, tài chính, bổ nhiệm, sĩ quan. Đô hộ,
chính kiến, Lạc Việt, bộ lạc, di chúc. Xứ, nhuệ khí,
tương phùng, công đường, hoa lợi, sĩ tốt, tiếm
quyền, ngụ cư, bi kịch, bác sĩ,... Trường hợp đặt
quốc hiệu Đại Ngu của nhà Hồ không phải không
gây phiền hà cho không ít người ngày nay khi lý
giải từ này.
Thậm chí hai từ trí sĩ và chí sĩ ai
cũng biết, nhưng hiểu cho đúng nghĩa gốc và ý
nghĩa hai từ này thì không phải ai cũng lí giải
được. Trong cụm từ Trí sĩ, thì “trí” nghĩa gốc là
đến, còn “sĩ” nghĩa là làm quan, chỉ việc làm
quan đã đến lúc nghỉ, và nghĩa của hai từ này là
nghỉ quan, tức nghỉ hưu, tương đương từ Hưu trí:
hưu là nghỉ, trí là đến, tức là đến lúc nghỉ hưu.
Còn Chí sĩ, thì “chí” là chí hướng, “sĩ” là
người, ý chỉ người có chí hướng, như Chí sĩ Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh,... Vì thế mà từ “Hưu
trí” trong tiếng Việt không được viết là “Hưu chí”.
Trong nghiên cứu gần đây của chúng tôi về hai
chữ Hoa Lư, thấy rằng đã có hai chữ Hoa Lư được
viết bằng chữ Hán khác nhau. Một là Hoa Lư
, trong đó Lư là làng xóm, còn Hoa là Hoa Hạ, ý
chỉ nơi đây có nhiều làng xóm, cư dân văn minh,
nơi đây cũng vốn từng có nhiều người Hoa sinh
sống trước khi nhà Đinh xây dựng kinh đô Hoa Lư.
Hai là Hoa Lư , trong đó Lư là lau, cỏ lau,
còn hoa là hoa lá, ý chỉ nơi có nhiều hoa cỏ lau.
Điều đặc biệt là từ Hoa Lư là hoa lau này lại xuất
hiện ở trên văn bia và thần tích các làng xã quê
nội và quê ngoại của Đinh Bộ Lĩnh, nơi gắn với
câu chuyện cờ lau tập trận của Đinh Bộ Lĩnh khi
còn là trẻ trâu. Nơi đây hiện còn nhiều địa danh,
truyền ngôn như Thung Lá, Thung Lau, Cầu Mổ
(nơi mổ trâu khao quân),... gắn với câu chuyện
này. Ngược lại từ Hoa Lư có nghĩa là nơi làng
xóm phồn vinh thì chủ yếu sử dụng ở khu cố đô
Hoa Lư. Điều này nếu không nghiên cứu sâu chữ
Hán thì khó có thể phân biệt được như vậy.
Một số giải thích từ tiếng Việt trong Từ điển
tiếng Việt cũng có những hạn chế nhất định.
Chẳng hạn, Từ điển tiếng Việt giải thích từ Ngu
dân là đần độn là chưa đủ bởi nó có ý là làm dân
ngu đi. Hoa liễu: giải thích là bệnh lậu, nhưng là
hoa và liễu. Dân túy không phải thuần túy là túy là
say mà túy tinh hoa.
Từ "Vi điện tử" được dịch là hạt điện tử rất nhỏ,
là không ổn. Bởi từ "micro-éléctronique" trong
tiếng Pháp chỉ vai trò tính từ nha mạch vi điện tử,
thiết bị vi điện tử để chỉ mạch điện tử, hoặc thiết
bị điện tử có kích thước cực nhỏ.
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
639
Những từ Hán Việt khác được giải thích hoàn
toàn sai, như yếu điểm: điểm mạnh, yếu nhân
(người quan trọng), giải thích thành nhược điểm.
Báo cáo thành bá cáo, giả thiết với giả thuyết,
chân tu với trân tu, bàng bạc với bàn bạc, bàng
hoàng với bàn hoàn, bàng quan với bàng quang.
Khi viết cũng sai, như huyên thiên thành huyên
thuyên, phong thanh thành phong phanh, xán lạn
và sáng lạng, câu kết và cấu kết, vô hình trung và
vô hình chung, v.v..
Dùng từ Hán Việt ghép sai vị trí âm tiết dẫn
đến lẫn nghĩa: yếu điểm/điểm yếu, công lao/lao
công, sính lễ/sinh lý. Môn đăng hộ đối thực ra là
Môn đăng hậu đối.
Trong các di tích ở làng xã được tu bổ, viết lại
chữ Hán thì viết nhầm do chữ đồng âm, như: lệ
lâm nghĩa là rừng vải thì viết lệ nghĩa là rơi nước
mắt. Thánh cung vạn tuế viết thành Thánh cung
cùng tuế. Lạc Việt: chim lạc viết thành lạc: khoái
lạc, phong châu phong viết chữ phong là gió. Khu
tưởng niệm nhà Mạc ở Hải Phòng viết câu đối tiểu
nhi đồng
, nghĩa là các chi nhỏ nhưng cùng
gốc, thì viết nhi đồng là trẻ con.
Một trở ngại phổ biến hiện nay là từ Hán Việt
đồng âm. Hiện tượng đồng âm cho thấy tính chất
phức tạp về quan hệ ngữ nghĩa của từ trong khi sử
dụng. Đặc biệt hiện tượng đồng âm giữa các âm
tiết Hán Việt như: công
(thợ), công (không
tư vị, chung), công (sức bỏ ra, sự khó nhọc),
công (đánh, trừng trị) tham gia cấu tạo các từ
Hán Việt có yếu tố công: công an, công bố, công
binh, công bộc, công chúa, công chức, công đoàn,
công hiệu, công hàm, công nghệ, công nhận, công
nhật, công kích, phản công, phi công, công thành,
công thần, công ty, công bố v.v..
Các yếu tố gốc Hán “công” nêu trên là hiện
tượng chữ Hán đồng âm, khác dạng chữ nên nghĩa
của chúng khác nhau. Đối với người Việt không
học chữ Hán khó mà phân biệt, giải nghĩa các từ
Hán Việt có cùng yếu tố “công” một cách rành
mạch và có sức thuyết phục. Trong Hoàng thành
Thăng Long xưa có điện Long Trì với nghĩa
là thềm rồng thì được giải thích là đầm rồng do
hiểu nhầm chữ trì là thềm thành trì là ao đầm.
Hiện tượng xung khắc từ đồng âm giữa âm
Hán Việt và âm thuần Việt cũng là rào cản đối với
việc hiểu và sử dụng tiếng Việt. Ở đây thường xảy
ra tình trạng khó có thể phân biệt được đâu là yếu
tố gốc Hán, đâu là từ đơn tiếng Việt, chẳng hạn:
đông (Hán Việt: hướng đông), đông (Hán Việt -
mùa đông), đông (Hán Việt: đông trùng) và đông
trong tiếng Việt (đông đúc, đông đặc, máu đông,
số đông); hay lang (Hán Việt - con trai), lang (Hán
Việt - chó sói), lang (Hán Việt: chái nhà, đường đi
trong nhà), lang (Hán Việt - lang thang) và lang
trong tiếng Việt (lang ben, lang sống, khoai lang,
thầy lang). Trong trường hợp này, người biết chữ
Hán sẽ khu biệt những từ đồng âm trên một cách
dễ dàng.
Người dạy văn, cũng như dạy tiếng Việt ngày
nay khi gặp những bài thơ, văn chữ Hán, thì chủ
yếu đi sâu phân tích nội dung, nghệ thuật tác
phẩm thông qua phần dịch nghĩa tác phẩm đó, chứ
hiểu đúng tinh thần ý nghĩa câu, chữ Hán nguyên
văn còn rất hạn chế. Vì thế mà đã hiểu sai lệch nội
dung và ý nghĩa nguyên bản. Tiêu biểu trong đó là
câu thơ “Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ
” trong bài thơ “Khán thiên gia thi hữu
cảm” trong “Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Câu thơ này được dịch trong các sách
giáo khoa dạy văn học là “Thơ xưa yêu cảnh thiên
nhiên đẹp”. Qua lời dịch câu thơ có thể hiểu đúng
là thơ xưa của các nhà Nho chỉ thuần tuý miêu tả
cảnh đẹp thiên nhiên, gắn với núi sông, trăng gió,
khói mây, hoa lá mà hoàn toàn không đả động đến
nhân sinh, ý chí, hiện thực xã hội. Cái chính là đã
không nắm được cái cốt lõi nhất của câu thơ chính
văn là chữ “thiên” (nghĩa là nghiêng, thiên lệch,
chứ không phải “thiên” là thiên nhiên). Và như
vậy cần hiểu đúng là: thơ xưa nghiêng về việc tả
cảnh thiên nhiên đẹp, chứ không thuần nhất chỉ có
thiên nhiên không thôi. Câu thơ của vua Lê Thánh
Tông thế kỷ XV viết về Nguyễn Trãi là “Ức Trai
tâm thượng quang khuê tảo”, được dịch là “Văn
chương Nguyễn Trãi lòng soi sáng” hoàn toàn
không đúng, mà phải hiểu là “Ức Trai trong lòng
rạng vẻ văn chương”, bởi “khuê tảo” chỉ văn
chương, chứ không phải chỉ ngôi sao buổi sáng .
Tiu ban 4: Văn hóa trong hot đng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp
640
Ngoài ra, còn không ít trường hợp đã dịch ra
tiếng Việt rồi, nhưng chưa hiểu hết ý nghĩa sâu xa
của nó. Chẳng hạn, ở đền Ngọc sơn có chữ: Ngọc
ư tư (được giải thích là: ngọc ở đây, hiểu ra là ở
hồ Hoàn Kiếm có ngọc), thực ra nghĩa của nó là
“ngọc ở trong hòm, bán hay không bán” điển tích
từ học trò Khổng Tử là Tử Cống, ý chỉ không
muốn để tài đức người hiền mai một, không phí
hoài nguyên khí quốc gia. Tại Văn Miếu cũng có
từ “Văn tại tư”, nghĩa là: văn ở đây, câu chữ của
Khổng Tử có ý trấn an tinh thần môn sinh lúc bị
người Khuôn vây hãm.
Tại đền Hùng, có bức đại tự: “Cao sơn cảnh
hàng”, được đọc và giải thích khác nhau, thực ra
là lấy chữ trong Kinh Thi: Cao sơn ngưỡng chỉ,
cảnh hàng hành chỉ (Núi cao thì có thể ngẩng
trông lên. Con đường lớn thì có thể đi được). Ý
chỉ ân đức vua Hùng khiến người sau càng ngước
lên càng thấy lớn lao.
Tại đình làng Mỹ Hạ xã Gia Phương huyện
Nho Quan tỉnh Ninh Bình thờ Đinh Tiên Hoàng
có bức đại tự: “Đế thế như Hạ”, ý chỉ các đời vua
(ở Việt Nam) sánh với thời vua Hạ (Trung Hoa).
Thật là tràn đày lòng tự cương tự cường dân tộc.
Chữ Khuê tảo với ý nghĩa chỉ văn chương như vừa
nêu trên được cha ông ta thể hiện bằng Khuê văn
các ở Văn miếu Hà Nội, như một biểu trưng về
văn hiến của Thăng Long Hà Nội.
Đây là một trong những biểu trưng di sản văn
hóa Hán Nôm vô cùng quý giá, song cũng khá
phức tạp và khó khăn trong việc lí giải cặn kẽ ý
nghĩa của chúng. Điều đó khiến thế hệ trẻ ngày
nay gặp không ít trở ngại trong việc trích tuyển tác
phẩm Hán văn để dạy văn hoặc dạy tiếng Việt,
cũng như tìm hiểu về di sản văn hóa Việt Nam khi
không chú trọng đến nghĩa chữ Hán, văn hóa Hán,
thậm chí chỉ là từ gốc Hán Việt.
3. Một số giải pháp
Giải pháp khắc phục những bất cập về kiến
thức Hán Nôm của giáo viên dạy tiếng Việt và văn
học ở bậc phổ thông, cũng như đối với người nước
ngoài, đó là phải nhấn mạnh mảng kiến thức hết
sức quan trọng là hệ thống từ Hán Việt mà trọng
tâm là những yếu tố gốc Hán. Đây là vốn kiến
thức bắt buộc mà người dạy học cần hiểu chúng
một cách thấu đáo.
Các yếu tố gốc Hán được xác định là một âm
tiết có vai trò như những mắt xích, có khả năng
liên kết với các yếu tố khác tạo nên nhiều từ mới,
ví dụ: yếu tố tặc: giặc > không tặc, hải tặc, thuỷ
tặc, lâm tặc, tin tặc
Mặt khác, trong tiếng Việt nếu thiếu chúng sẽ
không thể phiên dịch những thuật ngữ từ ngoại lai
mà trong tiếng Việt không có từ tương ứng. Cần
nhất mạnh rằng, trong thời kỳ mở cửa, hội nhập
với thế giới, số lượng thuật ngữ, từ mới nhập vào
tiếng Việt khá nhiều. Đó chính là cơ hội cho
những yếu gốc Hán phát huy tác dụng của chúng,
làm phong phú thêm cho kho tàng tiếng Việt.
Những yếu tố gốc Hán đã, đang và sẽ chiếm vị
trí đáng kể trong sự vận động phát triển của tiếng
Việt. Chính vì vậy, việc giáo viên dạy Văn và
tiếng Việt bậc phổ thông, kể cả việc dạy tiếng Việt
cho người nước ngoài cần tích luỹ vốn chữ Hán
(yếu tố gốc Hán) có vị trí tích cực trong tiếng Việt
được tiếng Việt tiếp nhận và hoạt động theo qui
luật của tiếng Việt. Đó là nhu cầu bức thiết,
nghiêm túc và thực sự khách quan. Vấn đề ở chỗ
cần xác định chính xác số lượng yếu tố gốc Hán
đưa ra để người học cần nắm được là bao nhiêu từ
thực tế vốn có trong tiếng Việt.
Thông qua việc học từ Hán Việt, góp phần tăng
cường nhận thức cho người học khi tiếp cận với
hệ thống thuật ngữ, khái niệm có âm đọc Hán Việt,
chẳng hạn: Hằng đẳng thức, định lí, hình học
không gian, đáp số (toán), vật lí, điện trường, từ
trường, li tâm (vật lí), môi trường, địa mạo, thổ
nhưỡng, địa chất (địa lý); lưỡng tính, thực vật,
noãn bào, chủng loại (sinh vật); công thức, bão
hoà, phản ứng, hoá chất (hoá học); y lí, dược lý,
mạch, nam dược, thảo quả, phẫu thuật, nha khoa,
nhãn khoa, lão khoa (y dược); chứng