Triết học Khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII là một giai đoạn phát triển rực rỡ
trong lịch sử tư tưởng nhân loại với những
tên tuổi mà học thuyết của họ đã khơi
nguồn cho cuộc đấu tranh “chống phong
kiến, đề cao lý trí và các quyền tự do, dân
chủ của nhân dân”1. Jean - Jacques
Rousseau (1712 - 1778) là đại diện tiêu
biểu của triết học Khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII. Với tác phẩm nổi tiếng Bàn về khế
ước xã hội (Du contrat social), Rousseau
đã góp phần quan trọng trong việc đặt nền
móng cho các tuyên ngôn về quyền con
người. Điều đó có ý nghĩa hết sức to lớn
đối với nhân loại tiến bộ trong hành trình
mưu cầu hạnh phúc cho mình. Không thể
phủ nhận chính những tư tưởng đầy tính
nhân văn của triết học Khai sáng Pháp đã82
trở thành một trong những động lực thúc
đẩy hành trình tìm đường cứu nước, giải
phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh. Tư tưởng về quyền con người từ
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
cách mạng Pháp 1789, kết tinh những giá
trị của triết học Khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII, trong đó có công lao của nhà triết
học Rousseau cũng đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh trân trọng đề cập tại Tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 399 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Từ tư tưởng về quyền con người trong tác phẩm Bàn về khế ước xã hội của Jean – Jacques Rousseau đến tư tưởng về quyền dân tộc trong Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 11 (36) - Thaùng 1/2016
81
Từ tư tưởng về quyền con người trong tác phẩm
Bàn về khế ước xã hội của Jean – Jacques Rousseau đến
tư tưởng về quyền dân tộc trong Tuyên ngôn độc lập
của Chủ tịch Hồ Chí Minh
From the thought about human rights in The social contract of Jean – Jacques
Rousseau to the thought about national rights in Declaration of Independence of
President Ho Chi Minh
ThS. Nguyễn Quỳnh Anh
Trường Đại học An ninh nhân dân
M.A. Nguyen Quynh Anh
University of People Security
Tóm tắt
Bài viết phân tích nội dung và những giá trị, hạn chế của tư tưởng về quyền con người trong tác phẩm
“Bàn về khế ước xã hội” của Jean -Jacques Rousseau, trên cơ sở đó làm rõ sự tiếp nối, phát triển trong
tư tưởng về quyền dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua bản “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945.
Từ khóa: quyền con người, Bàn về khế ước xã hội, Tuyên ngôn độc lập, quyền dân tộc
Abstract
This artical analyzes the content, the values and the limitations of the thought about human rights in
“The Social contract” of Jean - Jacques Rousseau, after that clarify the continuation, development of
this idea in the thought about national right in “Declaration of Independence” of President Ho Chi Minh.
Keywords: human rights, The Social contract, Declaration of Independence, national rights
Triết học Khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII là một giai đoạn phát triển rực rỡ
trong lịch sử tư tưởng nhân loại với những
tên tuổi mà học thuyết của họ đã khơi
nguồn cho cuộc đấu tranh “chống phong
kiến, đề cao lý trí và các quyền tự do, dân
chủ của nhân dân”1. Jean - Jacques
Rousseau (1712 - 1778) là đại diện tiêu
biểu của triết học Khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII. Với tác phẩm nổi tiếng Bàn về khế
ước xã hội (Du contrat social), Rousseau
đã góp phần quan trọng trong việc đặt nền
móng cho các tuyên ngôn về quyền con
người. Điều đó có ý nghĩa hết sức to lớn
đối với nhân loại tiến bộ trong hành trình
mưu cầu hạnh phúc cho mình. Không thể
phủ nhận chính những tư tưởng đầy tính
nhân văn của triết học Khai sáng Pháp đã
82
trở thành một trong những động lực thúc
đẩy hành trình tìm đường cứu nước, giải
phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh. Tư tưởng về quyền con người từ
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
cách mạng Pháp 1789, kết tinh những giá
trị của triết học Khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII, trong đó có công lao của nhà triết
học Rousseau cũng đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh trân trọng đề cập tại Tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa.
1. Nội dung xuyên suốt trong tác
phẩm Bàn về khế ước xã hội của Rousseau
(1712 - 1778) là tự do, bình đẳng và sự
cảm thông sâu sắc với thân phận con
người. Rousseau đã khẳng định “Tự do là
từ bản chất con người mà có. Luật đầu tiên
của tự do là mỗi người phải được chăm lo
sự tồn tại của mình”. Chính bởi điều này
mà ông đã luôn trăn trở tìm đáp án cho câu
hỏi tại sao con người lại đánh mất bản tính
tự nhiên của mình, tại sao: “Người ta sinh
ra tự do, nhưng rồi đâu đâu con người cũng
sống trong xiềng xích”2. Rousseau chứng
minh bất bình đẳng là sản phẩm của xã hội
loài người, nó tồn tại và phát triển từ khi
xuất hiện chế độ tư hữu tài sản. Vấn đề đặt
ra là làm sao có thể khắc phục được điều
này, “tạo ra điều kỳ diệu khiến kẻ mạnh
phục vụ kẻ yếu và nhân dân bị áp bức có
được cuộc sống thực tại hạnh phúc”3.
Rousseau cho rằng: “Kẻ mạnh không phải
lúc nào cũng đủ mạnh để mãi mãi làm
người thống trị, nếu như hắn ta không
chuyển lực thành quyền và chuyển sự phục
tùng thành nghĩa vụ”4. Vì vậy, ông khuyến
khích con người tranh đấu cho các quyền
của mình. Theo Rousseau, “Khi nhân dân
bị cưỡng bức mà lại biết phục tùng, họ làm
thế là phải; nhưng nếu có thể hất cái ách áp
bức đó thì còn hay hơn nữa; vì thế là họ
giành lại tự do mà họ vốn có quyền được
hưởng, có quyền giành lại và không ai
được tước đoạt tự do của họ”5. Ông phê
phán mạnh mẽ những người cam chịu,
không dám đấu tranh, từ bỏ tự do của
mình, bởi đó chính là “từ bỏ phẩm chất
con người và cả nghĩa vụ làm người.
Không thể không có tí đền bù tất yếu nào
cho người đang từ bỏ tất cả. Bản chất con
người không thể dung hòa với sự từ bỏ vô
điều kiện như thế. Làm cho ý chí con
người mất tự do tức là tước bỏ đạo lý trong
hành động của con người”6.
Rousseau đưa ra biện pháp để thiết lập
sự tự do, bình đẳng giữa người với người,
đó là việc xây dựng một khế ước hay một
công ước xã hội khi con người đã thoát ra
khỏi trạng thái tự nhiên để trở thành con
người dân sự. Thực chất của khế ước xã
hội, theo Rousseau là “Mỗi người chúng ta
đặt mình và quyền lực của mình dưới sự
điều khiển tối cao của ý chí chung, và
chúng ta tiếp nhận mọi thành viên như một
bộ phận không thể tách rời của toàn thể”7.
Ông cho rằng khế ước xã hội là sự thỏa
thuận giữa những chủ thể bình đẳng với
nhau chứ không phải giữa nhà cầm quyền
và thần dân, bởi vậy sự ra đời của nhà nước
trên cơ sở khế ước phải phù hợp với ý chí
của nhân dân và hướng tới đảm bảo các
quyền tự nhiên cho con người. Kế tiếp
quan điểm về khế ước xã hội, Rousseau
dành nhiều công sức cho việc phân tích vai
trò của pháp luật và các cơ quan đảm bảo
cho việc thực thi pháp luật. Ông đã nêu bật
lên một tư tưởng hết sức vĩ đại: “Nếu xem
điều tốt nhất cho tất cả mọi người, và đỉnh
cao nhất của các hệ thống lập pháp là gì, ta
sẽ thấy điều đó quy gọn vào hai mục tiêu:
Tự do và Bình đẳng. Tự do, vì cá nhân bị
mất tự do bao nhiêu thì cơ thể quốc gia
giảm sức lực bấy nhiêu. Bình đẳng, Vì
83
không có bình đẳng thì không thể nào có tự
do được”8.
Rousseau cho rằng sự tập trung ý chí
toàn dân thể hiện ở cơ quan lập pháp, còn
sức mạnh quốc gia thể hiện ở cơ quan hành
pháp, tức là chính phủ. Bởi vậy, để hướng
tới những giá trị chân chính của vấn đề
quyền con người thì bên cạnh hệ thống luật
pháp chân chính, quốc gia cần có một
chính phủ đủ mạnh để hiện thực hóa lý
tưởng của cộng đồng. Đó là một chính phủ
tinh gọn, có thể đảm bảo hòa bình, hạnh
phúc cho các thành viên. Theo Rousseau
“quan lại càng đông, chính phủ càng yếu”9
và “chính phủ mà để cho dân ngày càng
hao mòn, suy nhược, số dân ngày càng
giảm sút; đó là chính phủ tồi tệ nhất”10. Lẽ
dĩ nhiên, khi chính phủ lạm quyền và thoái
hóa thì quyền con người cũng sẽ bị tác
động xấu đi, đây chính là tình trạng chính
phủ làm trái với quyền lực tối cao của nhân
dân, đi ngược lại lợi ích cộng đồng. Để
ngăn chặn việc chính phủ đoạt quyền,
Rousseau trở lại với vấn đề lập pháp và
khẳng định phải có một đạo luật về thành
lập chính phủ để ở đó “Những người được
ủy thác nắm quyền hành pháp không phải
là những ông chủ nhân dân mà chỉ là
những công chức. Dân chúng có thể cất
nhắc hay bãi miễn họ; họ không được phản
kháng mà chỉ có phục tùng. Khi thực hiện
chức năng được quốc gia giao phó chính là
họ làm nghĩa vụ công dân mà không có
quyền đặt điều kiện với nhân dân”11.
Có thể nói, trong tác phẩm “Bàn về
khế ước xã hội”, Rousseau đã đề cập đến
vấn đề quyền con người một cách khá toàn
diện. Ông bênh vực cho quyền tự do, bình
đẳng của con người đồng thời thiết lập một
cơ chế bảo vệ quyền con người thông qua
một hệ thống các cơ quan nhà nước. Mặc
dù chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm khi
cho rằng nhà nước, pháp luật được hình
thành trên sự thỏa thuận xã hội, song tư
tưởng của Rousseau đã góp phần tạo dựng
sự rực rỡ của triết học Khai sáng Pháp thế
kỷ XVIII, đồng thời đánh thức tinh thần
đấu tranh vì tự do, bình đẳng của con
người trong cách mạng tư sản Pháp 1789.
2. Lịch sử đấu tranh cách mạng kiên
cường, gian khổ của dân tộc Việt Nam
cũng hướng tới mục đích giải phóng con
người và hiện thực hóa quyền con người.
Tư tưởng về quyền con người cũng đã
được thể hiện qua nhiều áng hùng văn bất
hủ, trong đó tiêu biểu là Tuyên ngôn độc
lập năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tác phẩm này được coi như tuyên ngôn
độc lập thứ ba của Việt Nam sau Nam quốc
sơn hà của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại
cáo của Nguyễn Trãi, song đây là bản
tuyên ngôn đầu tiên phản ánh một cách
toàn diện, triệt để và nổi bật vấn đề quyền
con người. Trong Tuyên ngôn độc lập, Hồ
Chí Minh đã khẳng định rằng: mọi người
đều sinh ra có quyền tự do, bình đẳng; hai
chữ “tự do” được Người nhắc đi, nhắc lại
tới 10 lần. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh
sự bất công giữa con người với con người
và yêu cầu quyền bình đẳng cho nhân dân
Việt Nam. Điều đó khẳng định tư tưởng về
quyền con người của Hồ Chí Minh thống
nhất và liền mạch với tư tưởng của nhân
loại tiến bộ, chứa đựng những giá trị phổ
quát, mang tính nhân văn đã được Rousseu
đề cập trước đó hai thế kỷ.
Từ tư duy trên, Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều
sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự
do”12. Đây chính là điểm khác biệt căn bản
giữa quan điểm về quyền con người của
Hồ Chí Minh với quan điểm về quyền con
người của Rousseau. Nếu như trong tác
84
phẩm Bàn về khế ước xã hội, Rousseau chỉ
đề cao quyền tự do, bình đẳng của con
người tự nhiên với tư cách là cá nhân con
người tự nhiên thì trong Tuyên ngôn độc
lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
mở rộng ra thành quyền tự do, bình đẳng
của “tất cả các dân tộc trên thế giới”. Theo
Hồ Chí Minh, quyền con người và quyền
dân tộc thống nhất chặt chẽ với nhau,
quyền con người là lẽ tự nhiên nên quyền
dân tộc cũng là lẽ tự nhiên. Tuy nhiên,
quyền con người chỉ có thể thực hiện khi
quyền dân tộc được thực hiện, một dân tộc
mất tự do thì con người cũng không thể có
cuộc sống tự do, hạnh phúc.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã
khẳng định mối liên hệ hữu cơ giữa quyền
dân tộc và quyền con người. Khi đất nước
ta còn đắm chìm trong màn đêm nô lệ,
quằn quại dưới ách thống trị của thực dân,
đế quốc thì những giá trị như “tự do”,
“bình đẳng”, “bác ái” mà họ mang đến khai
hoá cho nhân dân ta chỉ là khẩu hiệu, thay
vào đó là “nhà tù”, “rượu cồn và thuốc
phiện”, là sự đàn áp đẫm máu và dã man
Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Thế mà hơn 80
năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ
tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước
ta, áp bức đồng bào ta.... chúng không cho
nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”13
và “Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến
xâm lăng Đông Dương... Từ đó dân ta chịu
hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật....Kết
quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay,
từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu
đồng bào ta chết đói”14. Bởi vậy, từ tư
tưởng về quyền tự do, bình đẳng của dân
tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng
định quyền dân tộc độc lập và dân tộc tự
quyết. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rằng
quyền con người là thành quả đấu tranh lâu
dài của nhân dân lao động và các dân tộc bị
áp bức trên thế giới, chỉ dân tộc nào giành
được độc lập và quyền tự quyết cho mình
thì dân tộc đó mới thực sự tự do, bình
đẳng. Trong Tuyên ngôn độc lập năm
1945, Người đã tuyên bố hết sức mạnh mẽ
về quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam:
“Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ
của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã
gan góc đứng về phía Đồng minh chống
phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải
được tự do! Dân tộc đó phải được độc
lập!”15.
Không chỉ dừng lại ở các quyền dân
tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục đề cập
đến vấn đề chủ quyền quốc gia, gắn bó
chặt chẽ chủ quyền quốc gia với quyền dân
tộc, coi đó như một thể thống nhất không
thể tách rời. Vì thế, sau tuyên bố “dân tộc
đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được
độc lập”, Người tiếp tục nhấn mạnh:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thật đã trở thành một nước
tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do, độc lập ấy”16. Trên tinh thần biện
chứng, Hồ Chí Minh nhận thấy được điều
kiện tiên quyết để đạt được quyền tự do
dân tộc thì dân tộc đó phải có quyền tự
quyết, quốc gia đó phải có chủ quyền,
song, Người cũng nhấn mạnh mục đích
cuối cùng của cách mạng là quyền tự do,
bình đẳng thật sự cho con người, cho dân
tộc cho nên về sau Người vẫn luôn quan
niệm rằng: “Nếu nước độc lập mà nhân dân
dân không được tự do thì độc lập ấy không
có nghĩa lý gì”17.
Có thể nói, trong Tuyên ngôn độc lập
năm 1945, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và kế
thừa tư tưởng về tự do, bình đẳng từ nền
văn hóa Khai sáng Pháp nói chung, tác
85
phẩm Bàn về khế ước xã hội của Rousseau
nói riêng, coi đó là quyền tự nhiên, thiêng
liêng, bất khả xâm phạm của con người. Sự
thống nhất về tư tưởng giữa Hồ Chí Minh
với Rousseau thể hiện ở ý chí quyết tâm
chống lại bất bình đẳng, giành lại tự do cho
con người và khẳng định “mọi chế độ độc
tài áp bức đều trái với tự nhiên và cần phải
bị đánh đổ”18. Tuy nhiên, không chỉ dừng
lại ở quyền cá nhân của con người, trong
Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Hồ Chí
Minh đã vạch ra một tư tưởng mang tầm
vóc thời đại và hoàn toàn mới mẻ, đó là:
Quyền con người không chỉ dừng lại ở
quyền cá nhân mà còn suy rộng ra quyền
dân tộc, thể hiện sự thống nhất không thể
tách rời giữa quyền con người, quyền dân
tộc và chủ quyền quốc gia. Đây chính là
cống hiến lý luận to lớn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh vào kho tàng tư tưởng quyền con
người của nhân loại, bổ sung cho tư tưởng
về quyền con người mà nhà triết học
Rousseau đã đặt ra. Trong khuôn khổ một
bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh
không đi sâu đề cập về nhà nước, pháp
luật, cơ chế để đảm bảo thực hiện quyền
con người như Rousseau đã phân tích, lý
giải. Tuy nhiên, cần hiểu rằng, đây chính là
Tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, một Nhà nước hướng
đến phục vụ con người. Vấn đề xây dựng
nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân hoạt động trên tinh thần thượng tôn
pháp luật cũng đã được Hồ Chí Minh kết
hợp hài hòa giữa quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin với tinh hoa văn hóa nhân
loại, trong đó có tư tưởng của Rousseau.
Điều này thể hiện qua các tác phẩm trước
và sau khi bản Tuyên ngôn ra đời, cũng
như bằng chính thực tế lãnh đạo cách mạng
đầy sống động của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tóm lại, hiếm có một nhà triết học nào
trong lịch sử để lại một dấu ấn khó có thể
nhạt nhòa như Rousseau; cũng hiếm có
một vĩ nhân nào có thể biến những tinh hoa
của nhân loại trở thành thực tiễn cách
mạng, đánh đổ áp bức, bóc lột cho cả một
dân tộc như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tác
phẩm Bàn về khế ước xã hội của Rousseau
và Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đều trở thành những văn
bản có giá trị hết sức quan trọng đối với
loài người, phản ánh khát vọng thực hiện
các quyền cơ bản của mình. Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn khẳng định chủ trương:
“Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn
quyền con người với quyền và lợi ích của
dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của
nhân dân”19. Thực tế, toàn Đảng, toàn dân
ta đang ra sức phấn đấu cho mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh” nhằm thực hiện ngày càng
tốt hơn, đầy đủ hơn các tiêu chí về quyền
con người. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu đạt được, vấn đề bảo vệ và phát
huy quyền con người ở Việt Nam hiện nay
còn tồn tại nhiều hạn chế, khiếm khuyết
cần phải được khắc phục. Bởi vậy, việc đi
sâu tìm hiểu những tinh hoa tư tưởng của
Việt Nam và nhân loại về vấn đề quyền
con người, quyền dân tộc để vận dụng có
hiệu quả vào thực tiễn là vấn đề hết sức cấp
thiết. Trong đó, Tuyên ngôn độc lập năm
1945 của Hồ Chí Minh và Bàn về Khế ước
xã hội của Rousseau là những văn kiện lịch
sử điển hình đáp ứng tốt yêu cầu đó.
CHÚ THÍCH
1. Đỗ Văn Nhung (1999), Đại cương lịch sử văn
minh phương Tây, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
tr.256.
2. Rousseau.J.J. (2004), Bàn về khế ước xã hội
(Hoàng Thanh Đạm dịch thuật, chú thích và bình
giải), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.52.
86
3. Rousseau.J.J. (2004), Sđd, tr.16.
4. Rousseau.J.J. (2004), Sđd, tr.56.
5. Rousseau.J.J. (2004), Sđd, tr.52.
6. Rousseau.J.J. (2004), Sđd, tr.59 - 60.
7. Rousseau.J.J. (2004), Sđd, tr.68.
8. Rousseau.J.J. (2004), Sđd, tr.115.
9. Rousseau.J.J. (2004), Sđd, tr.129.
10. Rousseau.J.J. (2004), Sđd, tr.161.
11. Rousseau.J.J. (2004), Sđd, tr.187.
12. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, t.4, tr.1.
13. Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr.1.
14. Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr.2.
15. Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr.3.
16. Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr.4.
17. Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr.502.
18. Moiricher. B (Chủ biên) (2010), Triết học Tây
phương từ khởi thủy đến đương đại, Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội, tr.683
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện
đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc gia, tr.76.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện
đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Locke. J (2006), Khảo luận thứ hai về chính
quyền, Nxb Tri thức, Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tập 4.
4. Moiricher. B (Chủ biên) (2010), Triết học Tây
phương từ khởi thủy đến đương đại, Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
5. Đỗ Văn Nhung (1999), Đại cương lịch sử văn
minh phương Tây, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
6. Rousseau.J.J. (2004), Bàn về khế ước xã hội
(Hoàng Thanh Đạm dịch thuật, chú thích và
bình giải), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
7. Phùng Văn Tửu (1978), Giăng Giắc Rútxô,
Nxb Văn học, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 29/09/2015 Biên tập xong: 15/01/2016 Duyệt đăng: 20/01/2016