Khái niệm văn hoá theo nghĩa rộng:
Văn hoá Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước.
69 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1467 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương VII: Đường lối xây dựng, phát triển nền văn hoá và giải quyết các vấn đề xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thành viên nhómTrần Thanh Sang (nhóm trưởng)Trương Trúc AnhĐỗ Chí HữuĐỗ Chí CườngPhạm Lê TrungNguyễn Hoàng SaNguyễn Trọng NhânPhan Thị Thu ThảoNguyễn Phan Trùng DươngTrần Thị Lý HuỳnhCHƯƠNG VIIĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ VÀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI.I. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁKhái niệm văn hoá theo nghĩa rộng: Văn hoá Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước.Khái niệm văn hoá theo nghĩa hẹp:- Văn hoá là đời sống tinh thần của xã hội.Văn hoá là hệ các giá trị, truyền thống, lối sống. Văn hoá là năng lực sáng tạo của một dân tộc.Văn hoá là bản sắc của một dân tộc, là cái phân biệt dân tộc này với dân tộc khác1. Thời kỳ trước đổi mớia. Quan điểm, chủ trương về xây dựng nền văn hoá mới. Trong những năm 1943-1954Năm 1943, Đảng ta đưa ra bản Đề cương văn hoá Việt Nam,do đồng chí tổng bí thư Trường Chinh xác định: Văn hoá là một trong ba mặt trận của cách mạng VN (Kinh tế, chính trị, văn hoá). Đề ra ba nguyên tắc của nền văn hoá mới: + Dân tộc hoá (chống mọi ảnh hưởng của nô dịch và thuộc địa) + Khoa học hoá (chống lại tất cả những gì làm cho văn hoá phản tiến bộ). + Đại chúng hoá (chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hoá phản lại hoặc xa rời quần chúng)Ngày 3-9-1945 trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam mới trong đó có 2 nhiệm vụ cấp bách về văn hoá: đó là chống nạn mù chữ và giáo dục lại tinh thần nhân dân .Năm 1946, Chính phủ thành lập Ban trung ương vận động Đời sống mới, tháng 3-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tài liệu Đời sống mới nhằm giáo dục lại tinh thần nhân dân.Tài liệu “ Đời Sống Mới” tháng 3-1947Trần Huy LiệuDương Đức HiềnVũ Đình HòeNguyễn Tấn Gi TrọngNguyễn Huy TưởngTrong kháng chiến chống Pháp, đường lối của Đảng về văn hoá đã chỉ rõ: Mối quan hệ giữa văn hoá và cách mạng giải phóng dân tộc.Cổ động văn hoá cứu quốc, xây dựng nền văn hoá dân chủ mới yêu nước và tiến bộ.Bài trừ hủ tục và những ảnh hưởng xấu của văn hoá thực dân phản động.Học cái hay, cái tốt của văn hoá thế giớiTrong những năm 1955-1986Từ Đại hội III (1960), Đảng chủ trương:-- Tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá, xây dựng và phát triển nền văn hoá mới, con người mới.Mục tiêu là làm cho nhân dân thoát nạn mù chữ, xoá bỏ những thói hư, tật xấu do xã hội cũ để lại, có trình độ văn hoá ngày càng cao. Có hiểu biết cần thiết về khoa học kỹ thuật tiên tiến để xây dựng CNXH.Đại hội IV, V tiếp tục đường lối phát triển văn hoá của Đại hội III, xác định:Đại Hội VĐại Hội IVNhiệm vụ của công tác văn hoá thời gian này là tiến hành cải cách giáo dục, phát triển mạnh khoa học, nghệ thuật, giáo dục tinh thần làm chủ tập thể, chống các tư tưởng văn hoá hủ bại, thực dânNền văn hoá mới là nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân.b. Đánh giá sự thực hiện đường lối.Đã xoá bỏ dần những những mặt lạc hậu, những cái lỗi thời trong di sản văn hoá phong kiến, thực dân, đế quốc.Bước đầu xây dựng nền văn hoá dân chủ mới với tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng.Nhiều triệu đồng bào mù chữ đã biết đọc, biết viết.Hệ thống giáo dục mới được hình thành.Văn hoá cứu quốc đã động viên nhân dân tích cực kháng chiến chống Pháp, xây dựng chế độ mới.Trong những năm 1955-1986, công tác tư tưởng văn hoá đã đạt được những thành tựu to lớn:- Sự nghiệp giáo dục, văn hoá phát triển với tốc độ cao, kể cả những năm chiến tranh.- Hoạt động văn hoá, nghệ thuật phát triển nhiều mặt.-Trình độ văn hoá chung của nhân dân được nâng lên.- Con người sống có tình, có nghĩa, đoàn kết, thương yêu nhau.Chủ nghĩa yêu nước, nhân phẩm và những giá trị cao quý của con người Việt Nam được phát huy, điều đó góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc VN XHCN.Hạn chế và nguyên nhân Công tác tư tưởng, văn hoá còn thiếu sắc bén, thiếu tính chiến đấu. Việc xây dựng thể chế văn hoá còn chậm. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống có chiều hướng phát triển. Đời sống văn học, nghệ thuật còn có những mặt bất cập. Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc.Một số công trình van hoá vật thể và phi vật thể truyền thống có giá trị không được quan tâm, bảo tồn, lưu giữNguyên nhân:Đường lối xây dựng phát triển văn hoá 1955-1986 bị chi phối bởi tư duy chính trị nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, “ai thắng ai” đấu tranh giữa 2 con đường, đấu tranh 2 phe, đấu tranh ý thức hệMục tiêu, nội dung của cuộc cách mạng tư tưởng, văn hoá giai đoạn này bị quy định bởi cuộc cách mạng quan hệ sản xuất: triệt để xoá bỏ tư hữu, xoá bỏ bóc lộtChiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, tâm lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hoá, giáo dục, kìm hãm năng lực tự do sáng tạo2. Trong thời kỳ đổi mớiQuá trình đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển nền văn hoá.Đại hội VI (1986) xác định: Khoa học-kỹ thuật là một động lực to lớn đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế-xã hội; có vị trí then chốt trong sự nghiệp xây dựng CNXH.Đại hội VII (1991), thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, chủ trương về văn hoá xây nền văn hoá VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.Đại hội VII, VIII, IX, X : xác định văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển.b.Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng và phát triển nền văn hoá.Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội.Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội:Các hệ giá trị, truyền thống và lối sống của con người Việt Nam : yêu nước, yêu lao động, cần cù, thông minh, dũng cảm, sống trung thực, khiêm tốn, giản dị, hiếu thảo với ông bà, tổ tiên, lòng nhân ái, vị tha, tôn sư, trọng đạo, tiết kiệm, tự kiềm chế, rộng lượng, các món ăn của dân tộc đã thấm sâu vào con người, cộng đồng, được truyền từ đời này sang đời khác, hình thành bản sắc riêng của dân tộc.Văn hoá là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc VN vượt qua thác ghềnh, tồn tại, không ngừng phát triển.Chủ trương của ta là làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, đẩy lùi các tiêu cực xã hội.Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc vận động nhân dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá mới.Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triểnSự phát triển kinh tế VN những năm qua không đơn thuần do các yếu tố kinh tế tạo ra mà còn do sự đổi mới tư duy, đổi mới chính sách và quản lý, do sự giải phóng tư tưởng, bước phát triển mới về trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ khoa học Nghĩa là động lực của sự đổi mới kinh tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị văn hoá đang được phát huy.Trong điều kiện cuộc CMKHCN, yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế là trí tuệ, là thông tin, là ý tưởng sáng tạo, đổi mới của những cá nhân và cả cộng đồng, không đơn thuần là dựa vào dân số nhiều hay ít, tài nguyên giàu có hay nghèo nànTrong nền kinh tế thị trườngTính tích cực của văn hoá thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật tạo ra hàng hoá chất lượng cao đáp ứng mọi yêu cầu đời sống xã hội.Tạo tiền đề quan trọng để nước ta hội nhập nay càng sâu, toàn diện hơn vào nền KT thế giới.Văn hoá phương Đông cổ vũ lối sống chừng mực, hài hoà thân thiện với thiên nhiênHạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái tiền tệ, hạn chế lối sống của một xã hội tiêu thụ dẫn tới cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trườngVăn hoá là một mục tiêu của phát triển.-Mục tiêu xây dựng một xã hội VN dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh, chính là mục tiêu văn hoá.Chiến lược phát triển KT-XH 1991-2000 xác đinh: + Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người.+ Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng XH, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường.+ Phát triển hướng tới mục tiêu văn hoá-xã hội mới bảo đảm phát triển bền vững, trường tồn.Vì vậy cần phải:Xác định mục tiêu giải pháp phát triển văn hoá phải căn cứ và hướng tới mục tiêu giải pháp phát triển kinh tế xã hội. Phát triển văn hoá trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế -xã hội.Khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội phải đồng thời xác định mục tiêu văn hoá, hướng tới xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.Phải có chính sách kinh tế trong văn hoá, văn hoá trong kinh tế. Xây dựng văn hoá kinh doanh, đạo đức kinh doanh, văn minh thương nghiệp, xây dựng đội ngũ doanh nhân thời hội nhập.Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng xã hội mới. Việc phát triển KT-XH cần đến nhiều nguồn lực khác nhau: tài nguyên thiên nhiên, vốn vv Những nguồn lực này có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh, tự sinh không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả nếu không có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: muốn xây dựng CNXH phải có con người XHCN.Chương trình phát triển của Liên hợp quốc đánh giá mức độ phát triển của mỗi quốc gia:Thành tựu giáo dục, tuổi thọ bình quân, mức thu nhập bình quân / người / năm.Quốc gia nào đạt thành tựu giáo dục cao, vốn trí tuệ toàn dân nhiều hơn, thì chứng tỏ xã hội đó phát triển hơn có khả năng tăng trưởng dồi dào.“Tài nguyên” con người, cái vốn con người, đó là vốn trí tuệ của dân tộc.Như vậy, văn hoá trực tiếp tạo dựng và nâng cao vốn “tài nguyên người”. Việt Nam chưa có lợi về chỉ số phát triển con người.Nền văn hoá mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hoá truyền thống bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.Đó là lòng yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc.Đó là lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, là đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, chiến đấu dũng cảm, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong cuộc sốngBản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.Bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân tộc thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết cạnh tranh, hợp tác để phát triển.Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội:Đó là cách tư duy, cách sống, cách dựng nước, giữ nước, cách sáng tạo trong văn hoá, khoa học, văn học nghệ thuật.Bản sắc văn hoá dân tộc được thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân tộc, là cốt lõi của một nền văn hoá, là cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự vững vàng của chế độ.Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của đất nước.Nó cũng phát triển theo quá trình hội nhập kin tế thế giới, quá trình giao lưu văn hoá với các quốc gia khác và sự tiếp nhận tích cực văn hoá, văn minh nhân loại. Vì vậy, chúng ta chủ trương xây dựng và hoàn thiện các giá trị và nhân cách con người VN trong thời kỳ CNH-HĐH, xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN và chủ động hội nhập quốc tế.Phấn đấu trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta có cách tư duy độc lập, có cách làm hiện đại, hiệu quả và mang sắc thái Việt Nam.Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc phải:Vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng những giá trị mới của văn hoá VN.Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc phải đi liền với chống những cái lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán và lề thói cũ.Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt NamĐặc trưng nổi bật của văn hoá Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là sự hoà quyện bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn hoá các dân tộc anh em cùng sống trên lãnh thổ VN.Việt Nam có 54 dân tộc, mỗi dân tộc đều có những giá trị, bản sắc văn hoá riêng, các giá trị, sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hoá VN thống nhất.Ở VN không có sự đồng hoá, thôn tính, kỳ thị bản sắc văn hoá lẫn nhau mà đều đoàn kết, thống nhất với nhau. Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.Công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp này.Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển KT-XH, là điều kiện cần thiết để xây dựng thành công CNXH.Thực hiện quốc sách trên ta chủ trương:Nâng cao giáo dục toàn diện, chấn hưng nền giáo dục VN, bồi dưỡng các giá trị văn hoá cho sinh viên, học sinh lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh sáng tạo của con người VN.Chuyển sang mô hình giáo dục mở- mô hình xã hội học tập, học tập suốt đời, tạo nhiều khả năng cơ hội khác nhau cho người học, công bằng xã hội trong giáo dục.Đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non, phổ thông.Phát triển mạnh hệ thống dạy nghề.Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học.Bảo đảm đủ số lượng, chất lượng đội ngũ giáo viên. Đổi mới phương pháp dạy học, thi cử đánh giá chất lượng giảng dạy.Thực hiện xã hội hoá giáo dục. Tăng cương thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động giáo dục.Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo, tham gia đào tạo nhân lực khu vực và thế giới.Phát triển khoa học xã hội, tiếp tục góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về con đường đi lên CNXH ở nước ta.Phát triển khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ, nâng lợi thế cạnh tranh của hàng hoá VN.Đổi mới cơ chế quản lý khoa học công nghệ.Văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.Ta phải:Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Tiếp thu những tinh hoa của văn hoá thế giới. Sáng tạo nên những giá trị văn hoá mới, làm giàu bản sắc văn hoá VN. Làm cho nó thấm sâu vào toàn xã hội và mỗi người VN, đây là quá trình đầy khó khăn thử thách. Trong đó xây nền văn hoá mới luôn đi đôi với chống các thói hư tật xấu, chống diễn biến hoà bình..c.Đánh giá việc thực hiện đường lốiCơ sở vật chất kỹ thuật của nền văn hoá mới bước đầu được tạo dựng, quá trình đổi mới tư duy về văn hoá, xây dựng con người và nguồn nhân lực có bước phát triển rõ rệt, hợp tác quốc tế về văn hoá được mở rộng.Giáo dục đào tạo có bước phát triển. Dân trí được nâng cao.Khoa học-công nghệ có bước phát triển, phục vụ thiết thực hơn nhiệm vụ phát triển KT-XH.Việc xây dựng đời sống văn hoá và nếp sống văn mình có tiến bộ trên cả nước.Đường lối và các chính sách văn hoá của Đảng đang được phát huy tác dụng tích cực. Được nhân dân đồng tình ủng hộ.Hạn chế và nguyên nhân.Những thành tựu về văn hoá còn chưa tương xứng, chưa vững chắc.Đạo đức lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp.Nhiệm vụ xây dựng, giáo dục con người Việt Nam thời kỳ CNH-HĐH chưa tạo được chuyển biến rõ rệt.Môi trường văn hoá còn bị ô nhiễm.Việc xây dựng về thể chế văn hoá còn chậm.Tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu về đời sống văn hoá-tinh thần ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người chưa được khắc phục hiệu quả.Nguyên nhân:Đường lối của Đảng về văn hoá chưa được quán triệt đầy đủ và thực hiện nghiêm túc.Bệnh chủ quan duy ý chí trong quản lý kinh tế xã hội tác động tiêu cực tới việc triển khai đường lối phát triển văn hoá.Chưa xây dựng được cơ chế, chính sách và giải pháp phù hợp để phát triển văn hoá.Một bộ phận những người hoạt động văn hoá có biểu hiện xa rời đời sống, chạy theo chủ nghĩa thực dụngII. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ CHỦ TRƯƠNG GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘICác vấn đề xã hội bao gồm:Việc làm, thu nhập, bình đẳng xã hội, khuyến khích làm giàu, xoá đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khoẻ, cung ứng dịch vụ công an, an sinh xã hội, cứu trợ xã hội, chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình vv1. Thời kỳ trước đổi mớia.Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội.Giai đoạn 1945-1954Sau Cách mạng tháng Tám – 1945 thành công, chính sách xã hội của Đảng được chỉ đạo bởi tư tưởng: Đất nước giành được tự do, độc lập rồi mà dân ta cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.Do đó chính sách xã hội lúc này là làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành.Tiếp sau đó là làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm.Chính sách trên được Chính phủ chủ trương và hướng dẫn để các tầng lớp nhân dân tự tổ chức và giải quyết các vấn đề xã hội của mình. (chính sách tăng gia sản xuất, tiết kiệm, đồng cam cộng khổ, điều hoà lợi ích giữa chủ và thợ)Giai đoạn 1955-1975.Các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, trong hoàn cảnh chiến tranh. Chế độ phân phối thực chất là theo chủ nghĩa bình quân. Nhà nước và tập thể đáp ứng các nhu cầu xã hội thiết yếu bằng chế độ bao cấp tràn lan và dựa vào viện trợ.Giai đoạn 1975-1985Các vấn đề xã hội được giải quyết theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp, trong hoàn cảnh đất nước lâm vào khủng hoảng KT-XH nghiêm trọng, nguồn viện trợ giảm dần, bị bao vây, cô lập và cấm vận.b. Đánh giá việc thực hiện đường lối.Chính sách xã hội 1945-1985 tuy có nhiều nhược điểm và hạn chế nhưng đã:Đảm bảo được sự ổn định của xã hội.Văn hoá, giáo dục, y tế, lối sống, đạo đức, kỷ cương và an ninh xã hội phát triển đáng tự hào.Miền Bắc hoàn thành nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Những thành tựu trên phản ánh bản chất tốt đẹp của chế độ mới và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội.Hạn chế và nguyên nhân:- Xã hội hình thành tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước, tập thể trong giải quyết các vấn đề xã hội.- Chế độ phân phối trên thực tế là bình quân, cào bằng, không khuyến khích những đơn vị, cá nhân làm tốt, làm giỏi.Đã hình thành một xã hội đóng, ổn định nhưng kém năng động, chậm phát triển.Nguyên nhân: chưa đặt đúng tầm chính sách xã hội trong quan hệ với chính sách thuộc các lĩnh vực khác. Áp dụng và duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp2. Trong thời kỳ đổi mớiQuá trình đổi mới nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội.- Đại hội VI cho rằng trình độ phát triển KT là điều kiện vật chất để giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế. Chính sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm- Do đó cần có chính sách xã hội phù hợp.- Mục tiêu của chính sách XH phù hợp với mục tiêu phát triển KT đều nhằm phát huy sức mạnh nhân tố con người.Đại hội VIII của Đảng chủ trương:Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển.Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất, phân phối kết quả sản xuất, tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển năng lực của mình.Thực hiện nhiều hình thức phân phối.Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói giảm nghèo.Các vấn đề xã hội đều được giải quyết theo tinh thần xã hội hoá.Đại hội IX của Đảng chủ trương:Các chính sách xã hội phải làm lành mạnh hoá xã hội.Thực hiện công bằng trong phân phối.Tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động.Thực hiện bình đẳng những quan hệ xã hội.Khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp