Tóm tắt:
Đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu từ hàng ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Nhờ có truyền
thống đoàn kết mà dân tộc Việt Nam đã giữ vững được biên cương bờ cõi, xây dựng lên một quốc gia độc
lập, tự chủ. Tiếp thu bài học truyền thống của dân tộc, sau khi xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí
Minh cho rằng, Đảng phải thực hiện trọng trách đoàn kết dân tộc, tập hợp lực lượng để đưa sự nghiệp
cách mạng của dân tộc đi đến thắng lợi hoàn toàn. Hệ thống quan điểm này của Người vẫn còn nguyên
giá trị đối với Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc tập hợp, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc trong giai
đoạn hiện nay.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 287 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng trong đoàn kết dân tộc để xây dựng lực lượng cách mạng và giá trị định hướng hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ISSN 2354-0575
Journal of Science and Technology134 Khoa học & Công nghệ - Số 20/Tháng 12 - 2018
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA ĐẢNG
TRONG ĐOÀN KẾT DÂN TỘC ĐỂ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG
VÀ GIÁ TRỊ ĐỊNH HƯỚNG HIỆN NAY
Nguyễn Chí Thiện1, Bùi Văn Hà2, Hoàng Thị Hồng Hạnh3
1 Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
2 Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên
3 Học viện Tài chính
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 22/10/2018
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 16/11/2018
Ngày bài báo được duyệt đăng: 23/11/2018
Tóm tắt:
Đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu từ hàng ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Nhờ có truyền
thống đoàn kết mà dân tộc Việt Nam đã giữ vững được biên cương bờ cõi, xây dựng lên một quốc gia độc
lập, tự chủ. Tiếp thu bài học truyền thống của dân tộc, sau khi xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí
Minh cho rằng, Đảng phải thực hiện trọng trách đoàn kết dân tộc, tập hợp lực lượng để đưa sự nghiệp
cách mạng của dân tộc đi đến thắng lợi hoàn toàn. Hệ thống quan điểm này của Người vẫn còn nguyên
giá trị đối với Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc tập hợp, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc trong giai
đoạn hiện nay.
Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam; dân tộc; đoàn kết; đoàn kết dân tộc; trách nhiệm; trách nhiệm của
Đảng Cộng sản Việt Nam; lực lượng; cách mạng.
Là người sáng lập ra chính đảng của dân tộc,
cho nên ngay từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ trách nhiệm quan trọng hàng đầu của Đảng Cộng
sản Việt Nam là “đưa kháng chiến đi đến thắng lợi,
kiến quốc đi đến thành công”, nhằm thực hiện thắng
lợi mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Người cho rằng, để hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng mà dân tộc giao phó thì đòi hỏi Đảng phải tập
hợp được xung quanh mình những “con Lạc cháu
Hồng” giàu lòng yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì Tổ
quốc. Điều đó có nghĩa là Đảng phải có trách nhiệm
đoàn kết nhân dân, tập hợp sức mạnh của toàn dân
tộc để hình thành nên lực lượng cho cách mạng Việt
Nam, nhằm đánh thắng kẻ thù xâm lược, giành độc
lập cho dân tộc. Quan điểm nêu trên càng có giá trị
quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi sự nghiệp
cách mạng của dân tộc bước sang giai đoạn mới,
thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, trong khuôn khổ
bài viết này, tác giả đi vào luận giải quan điểm của
Hồ Chí Minh về trách nhiệm của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong việc đoàn kết dân tộc nhằm hình
thành nên lực lượng cho cách mạng Việt nam, từ đó
rút ra giá trị định hướng đối với Đảng trong việc xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay.
1. Nội dung tư tưởng của Hồ Chí Minh về trách
nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc
đoàn kết dân tộc nhằm xây dựng lực lượng cho
cách mạng
Có thể thấy rằng, sở dĩ Hồ Chí Minh có được
nhận thức về trách nhiệm của Đảng là phải đoàn kết
dân tộc để hình thành nên lực lượng cho cách mạng
Việt Nam nhằm đưa kháng chiến đi đến thắng lợi,
kiến quốc đi đến thành công, là do Người đã sớm
đánh giá được vị trí, vai trò của chiến lược đoàn kết
đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Người đã
chỉ rõ: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như
một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân
ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” [2,
tr.256].
Từ nhận thức về tầm quan trọng của chiến
lược đại đoàn kết dân tộc để hình thành nên lực
lượng cho cách mạng, nhằm đưa kháng chiến đi đến
thắng lợi, kiến quốc đi đến thành công, năm 1930
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng cho dân tộc ta
một chính đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam. Người
cho rằng, Đảng ra đời và chịu sự ủy thác của toàn
dân tộc, đảm lãnh trách nhiệm đoàn kết nhân dân để
xây dựng lên lực lượng cho cách mạng. Đây là một
nhiệm vụ khó khăn nhưng rất vinh quang mà toàn
thể dân tộc Việt Nam đã giao phó cho Đảng phải
hoàn thành.
Với tinh thần trách nhiệm nêu trên, để tập
hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, phát huy cao
nhất sức mạnh dân tộc thực hiện thắng lợi công cuộc
kháng chiến và kiến quốc, nhiều bài nói, bài viết của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ chủ trương
của Đảng là tăng cường, mở rộng khối đại đoàn
kết toàn dân. Ngay từ khi thành lập Đảng (2/1930),
trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh đã
sớm chỉ rõ vai trò của Đảng trong đoàn kết, lãnh
đạo quần chúng nhân dân nhằm hình thành nên lực
ISSN 2354-0575
Khoa học & Công nghệ - Số 20/Tháng 12 - 2018 Journal of Science and Technology 135
lượng cho cách mạng Việt Nam, Người khẳng định:
“1. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai
cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được
dân chúng.
2. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận
dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm
thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và
phong kiến.
3. Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền
và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền
lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia.
4. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản,
trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việtđể kéo
họ đi vào phe vô sản giai cấp” [2, tr.3].
Trong Chương trình vắn tắt của Đảng cũng
khẳng định quan điểm nêu trên:
“2. Đảng tập hợp đa số quần chúng nông
dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa
chủ và phong kiến 4. Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí
thức và trung nông về phía giai cấp vô sản; Đảng
tập hợp hoặc lôi kéo phú nông, tư sản và tư bản bậc
trung, đánh đổ các đảng phản cách mạng như Đảng
Lập hiến...”[2, tr.4].
Như vậy, từ rất sớm trong hai Văn kiện quan
trọng ở Hội nghị hợp nhất Đảng, Hồ Chí Minh đã
xác định rõ một trong những trách nhiệm quan trọng
của Đảng là tập hợp, lôi kéo, lãnh đạo quần chúng
nhân dân trong mọi tầng lớp, giai cấp để hình thành
nên lực lượng cho cách mạng Việt Nam. Đây chính
là sự chỉ đạo cần thiết, kịp thời của Đảng đối với sự
nghiệp cách mạng của dân tộc, nhờ đó cách mạng
Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Năm 1952 khi phát biểu tại lớp chỉnh huấn
đầu tiên của Trung ương, Hồ Chí Minh cũng nêu
rõ nhiệm vụ quan trọng của Đảng lúc này là đoàn
kết và lãnh đạo nhân dân thực hiện kháng chiến
kiến quốc. Người chỉ rõ: “Đảng ta đã lãnh đạo giai
cấp và nhân dân làm Cách mạng Tháng Tám thành
công, giải phóng dân ta khỏi ách thực dân và chế độ
quân chủ, xây dựng chính quyền nhân dân. Ngày
nay nhiệm vụ của Đảng ta là đoàn kết và lãnh đạo
giai cấp cùng nhân dân kháng chiến kiến quốc. Đó
là một nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang, chỉ có Đảng
ta - Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động - làm được” [5, tr.414].
Năm 1964 trong bài viết nhân dịp kỷ niệm
34 năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh một lần
nữa lại khẳng định vai trò to lớn của Đảng trong
chiến lược đại đoàn kết dân tộc để đưa cách mạng
Việt Nam đi đến thành công, Người chỉ rõ: “Trong
những năm qua, Đảng ta đã phấn đấu rất anh dũng,
thắng lợi rất vẻ vang. Đó làdo Đảng ta đoàn kết
nhất trí. Nhờ vậy mà Đảng ta đã đoàn kết và lãnh
đạo dân ta vượt mọi gian khổ, khó khăn, tiến từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác” [11, tr.242].
Như vậy, có thể thấy rằng, Hồ Chí Minh đã
xác định đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của Đảng và của mỗi giai đoạn cách
mạng. Bởi lẽ, cách mạng muốn thành công nếu
chỉ có đường lối đúng thì chưa đủ, mà trên cơ sở
đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hóa thành mục
tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp
với từng giai đoạn lịch sử cụ thể để lôi kéo, tập hợp
quần chúng nhân dân, tạo nên lực lượng cho cách
mạng. Lực lượng đó chính là khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
Ở một khía cạnh nữa của vấn đề đó là, sau
khi xác định được vai trò của Đảng trong chiến lược
đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ đối tượng
mà Đảng hướng tới nhằm tổ chức, tập hợp để hình
nên lực lượng cho cách mạng Việt Nam. Người cho
rằng, Đảng phải khéo lãnh đạo, tổ chức, tập hợp lực
lượng quần chúng nhân dân ở mọi giai tầng trong xã
hội. Tức là Đảng phải xác định được lực lượng của
khối đại đoàn kết dân tộc là ai, và phải làm thế nào
để đoàn kết được những lực lượng ấy. Bởi lẽ, lực
lượng cách mạng nằm ở phía quần chúng nhân dân,
Đảng có trách nhiệm phải khơi dậy lòng yêu nước,
chí căm thù giặc trong họ thì mới tạo được sự đồng
tâm, đồng lực trong toàn dân tộc. Qua đó mới đoàn
kết được dân tộc, hình thành nên được lực lượng cho
cách mạng Việt Nam. Về vấn đề này Hồ Chí Minh
đã khẳng định: “Lực lượng của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận.
Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc
chắn thắng lợi. Đồng thời, Đảng phải đi sát quần
chúng, khéo tổ chức và lãnh đạo quần chúng, thì
cách mạng mới thành công” [9, tr.609]. Như vậy, rõ
ràng vai trò, trách nhiệm này của Đảng cũng xuất
phát từ mối quan hệ biện chứng giữa Đảng với dân
mà Hồ Chí Minh đã dày công xây dựng.
Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh cho rằng, để
xây dựng nước nhà, ai có tài, có đức, có sức, có lòng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn
kết với họ, nhưng đại đoàn kết tức là: trước hết phải
đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân
ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân
lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó
cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã
có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng
lớp nhân dân khác. Người cho rằng: “Bất kỳ ai mà
thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng
ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ.”
[7, tr.243].
Với tinh thần như vậy, trong tác phẩm
Thường thức chính trị (9/1953) khi bàn về động lực
ISSN 2354-0575
Journal of Science and Technology136 Khoa học & Công nghệ - Số 20/Tháng 12 - 2018
của cách mạng Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Tính chất
cách mạng của ta là cách mạng dân chủ mới, cho
nên động lực cách mạng gồm có những giai cấp:
công nhân, nông dân, tiểu tư sản. Trong một thời kỳ
và một trình độ nhất định, giai cấp tư sản dân tộc
cũng là động lực cách mạng” [6, tr.255]. Như vậy,
đối với cách mạng Việt Nam thì Đảng phải dựa chủ
yếu vào bốn thành phần giai cấp nêu trên, đoàn kết
thành Mặt trận thống nhất, đánh đế quốc và phong
kiến đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi hoàn
toàn.
Đối với mỗi tầng lớp, giai cấp Hồ Chí Minh
đều có những đánh giá về vị trí, vai trò của họ
đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và từ đó
Người yêu cầu Đảng phải có chính sách đoàn kết
những lực lượng này.
Trước hết đối với lực lượng là giai cấp nông
dân, Hồ Chí Minh cho rằng, đây là lực lượng đông
đảo nhất vì nó chiếm phần lớn dân số Việt Nam nên
Đảng phải đoàn kết chặt chẽ. Người chỉ rõ: “Muốn
độc lập thành công, kháng chiến thắng lợi thì phải
đánh quỵ đế quốc, đánh quỵ phong kiến. Và muốn
đạt mục đích ấy thì phải có một lực lượng cực kỳ
to lớn mạnh mẽ. Lực lượng ấytuyệt đại đa số là
nông dân lao động” [6, tr.299]. Để làm rõ vai trò
của lực lượng này Hồ Chí Minh còn khẳng định:
“Lực lượng của chúng ta là hàng chục triệu đồng
bào nông dân lao động, sẵn sàng chờ Chính phủ và
Đảng tổ chức và lãnh đạo, để hăng hái vươn mình
dậy đánh tan ách nô lệ của phong kiến và thực dân.
Khéo tổ chức, khéo lãnh đạo, thì lực lượng ấy sẽ
làm xoay trời chuyển đất, bao nhiêu thực dân và
phong kiến cũng sẽ bị lực lượng to lớn ấy đánh tan”
[6, tr.358]. Điều này rất phù hợp với chính sách của
Đảng và Chính phủ ta khi đánh giá về lực lượng của
cách mạng giải phóng dân tộc.
Đối với giai cấp công nhân, Người cho rằng,
đây là giai cấp có vai trò lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, bởi lẽ có tinh thần cách mạng triệt để nhất;
đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến xã hội
chủ nghĩa xắp ra đời; có ý thức tổ chức kỷ luật; có
mối liên minh tự nhiên với giai cấp nông dân. Vì
vậy, Đảng phải quan tâm phát triển lực lượng tiên
phong này.
Đối với tầng lớp trí thức, Người chỉ rõ:
“Đảng và Chính phủ rất mong muốn, rất cố gắng
mà đoàn kết với từng lớp trí thức, đoàn kết lâu dài
trong kháng chiến, trong kiến quốc, thực hành xã
hội chủ nghĩa” [6, tr.59].
Đối với tư sản dân tộc, Người cho rằng:
“Đảng phải có thái độ khéo léo, mềm dẻo. Phải hết
sức lôi kéo họ và giữ họ ở trong Mặt trận, thúc đẩy
họ hành động nếu có thể, cô lập họ về chính trị nếu
cần. Tránh hết sức để họ ở ngoài Mặt trận, vì như
thế là đẩy họ rơi vào tay bọn phản động, là tăng
thêm lực lượng cho chúng” [2, tr.167].
Đối với tầng lớp trung, tiểu địa chủ, Người
cho rằng, Đảng phải lôi kéo về phía cách mạng, nếu
không lôi kéo được thì phải trung lập để họ không
đứng về phía kẻ thù, v.v..
Một trong những điểm mới trong tư tưởng
đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh đó là đoàn kết
không chỉ dừng lại ở quan niệm, khẩu hiệu kêu gọi
mà phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực
lượng có tổ chức. Với quan điểm nêu trên thì lực
lượng trong khối đại đoàn kết dân tộc phải được
Đảng tập hợp, tổ chức lại và nằm trong một tổ chức
nhất định. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc
thống nhất, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi
quy tụ mọi tổ chức, cá nhân yêu nước, mọi con dân
nước Việt không chỉ ở trong nước mà còn bao gồm
cả người Việt Nam ở nước ngoài một lòng hướng
về Tổ quốc. Người đã chỉ rõ: “Đảng ta đã khéo tập
hợp mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ trong Mặt
trận dân tộc thống nhất, thực hiện đoàn kết dân tộc
để đấu tranh chống đế quốc và phong kiến” [10,
tr.417].
Tóm lại, với những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh
nêu trên có thể khẳng định rằng, để đảm bảo cho sự
nghiệp cách mạng của dân tộc đi đến thành công,
thì Đảng Cộng sản Việt Nam phải có trách nhiệm
thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng nhân dân,
chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi tự giác, thành
hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết dân
tộc, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong công cuộc
đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân
và hạnh phúc cho con người. Những quan điểm chỉ
đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trên còn nguyên
giá trị cho đến ngày nay, là cơ sở quan trọng để định
hướng cho Đảng trong việc xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc hiện nay.
2. Giá trị của tư tưởng đối với Đảng Cộng sản
Việt Nam trong việc xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc hiện nay
Trong những năm qua, mặc dù đất nước có
nhiều khó khăn, thách thức, nhưng dưới sự lãnh
đạo của Đảng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp
tục được mở rộng, củng cố và tăng cường. Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng
định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân có đổi mới cả về nội dung và phương thức
hoạt động; phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập
hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; cùng
Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tham gia xây
dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội” [1,
ISSN 2354-0575
Khoa học & Công nghệ - Số 20/Tháng 12 - 2018 Journal of Science and Technology 137
tr. 156-157].
Nhưng bên cạnh những thành tựu đã đạt
được trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc thì
vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Văn kiện
Đại hội XII của Đảng cũng chỉ rõ: “sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ,
có lúc, có nơi chưa phát huy được vai trò, sức mạnh
của nhân dân. Chưa đánh giá và dự báo chính xác
những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, tâm tư,
nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có chủ
trương phù hợp” [1, tr. 157].
Hiện nay, trước bối cảnh tình hình trong
nước, khu vực và quốc tế có những diễn biến phức
tạp, khó dự báo; đan xen cả thời cơ và thách thức,
thuận lợi và khó khăn đối với sự nghiệp đổi mới
nói chung và đường lối xây dựng, củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân tộc nói riêng. Lợi dụng quá trình
mở cửa, hội nhập, các thế lực thù địch đẩy mạnh
chiến lược “diễn biến hòa bình”, kích động tư tưởng
ly khai, chia rẽ dân tộc, phá hoại khối đại đoàn kết
toàn dân tộc ở nước ta. Vấn đề này đòi hỏi Đảng
phải có những đối sách phù hợp để tập hợp đoàn kết
các tầng lớp giai cấp nhân dân nhằm xây dựng lên
khối đại đoàn kết toàn dân tộc một cách chặt chẽ và
rộng rãi. Để thực hiện được mục tiêu nêu trên thì
yêu cầu Đảng phải quán triệt quan điểm của Hồ Chí
Minh về trách nhiệm của Đảng trong việc đoàn kết
dân tộc nhằm hình thành nên lực lượng cho cách
mạng Việt Nam; phải căn cứ vào điều kiện thực tiễn
của dân tộc, qua đó sẽ đề ra được đường lối, chủ
trương đúng đắn về chiến lược đại đoàn kết dân tộc.
Theo tôi trong thời gian tới để tiếp tục tăng cường
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc thì Đảng cần tập
trung vào một số nội dung sau đây.
Một là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để
các cấp, ngành, lực lượng nhận thức sâu sắc về sự
cần thiết phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
tộc hiện nay.
Về tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc
Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Đoàn kết là một
truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân
ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần
phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ
gìn con ngươi của mắt mình. Lúc nào dân ta đoàn
kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do.
Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước
ngoài xâm lấn. Vì vậy, trong công tác tuyên truyền
yêu cầu các tổ chức đảng cần phải làm cho nhân
dân thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về vai trò của đại đoàn kết dân tộc. Cùng với đó,
cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc quan điểm của
Đảng: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến
lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn
lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước và tiếp tục thể chế hóa các
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu đối với việc tăng cường, củng cố, phát huy vai
trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng lãnh
đạo thông qua đường lối, chính sách, Nhà nước
quản lý thông qua hệ thống pháp luật, nhằm tạo cơ
sở cho sự thống nhất các lợi ích, thống nhất về ý chí
và hành động của các giai cấp, tầng lớp trong xã
hội, nhất là giữa giai cấp công nhân, nông dân và
đội ngũ trí thức. Do vậy, Đảng và Nhà nước không
ngừng hoàn thiện, thể chế hóa, cụ thể hóa hệ thống
đường lối, chính sách, pháp luật để “bảo đảm tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, đáp ứng
yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và phải được
thực thi trong thực tiễn.
Ba là, giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các
giai cấp, tầng lớp xã hội; kết hợp hài hòa lợi ích cá
nhân, lợi ích tập thể và toàn xã hội.
Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ
sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành
viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo
đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những
thành quả của công cuộc đổi mới. Tăng cường bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân
dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào các dân
tộc thiểu số, ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,
vùng căn cứ kháng chiến cũ, các vùng chiến lược,
vùng tôn giáo.
Bốn là, kiên quyết đấu tranh với các quan
điểm sai trái, thù địch, phá hoại, chia rẽ khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Cấp ủy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp
và các tổ chức thành viên cần tham gia tuyên truyền
sâu rộng để mọi tầng lớp nhân dân nhận thức rõ
âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch đang lợi
dụng những khuyết điểm, hạn chế, sơ hở của các
cấp chính quyền, của Đảng, Nhà nước và vấn đề tín
ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Từ đó, tạo sự chuyển biến căn bản
trong nhận thức, nâng cao tinh thần cảnh giác, sự
nhạy bén trong nhận diện và tích cực tham gia đấu
tranh với những quan điểm sai trái, thù địch, v.v..
Tóm lại, đoàn kết dân tộc là một chiến lược
lâu