Tóm tắt
Thế kỷ XVIII là một giai đoạn lịch sử có nhiều biến động trong tiến trình phát triển của dân tộc. Chế độ
phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng. Cùng với việc đất nước bị phân chia
làm hai, Đàng Trong và Đàng Ngoài thì đời sống của nhân dân cũng gặp muôn vàn khó khăn, dưới các
chính sách thuế khóa, lao dịch của nhà nước. Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đó, mặc dù xuất thân
từ một gia đình quan lại phong kiến, nhưng ở Lê Quý Đôn đã hình thành lên những tư tưởng chính trị hết
sức sâu sắc, đặc biệt là tư tưởng về dân, nó không chỉ có ý nghĩa bởi tính vượt trước đối với lịch sử tư
tưởng Việt Nam thời đại ông mà nó còn có ý nghĩa vượt thời gian đến ngày nay. Lê Quý Đôn đã có những
nhìn nhận và đánh giá đúng về vai trò của dân trong đời sống xã hội, từ đó ông đã đưa ra những yêu cầu
đối với giai cấp cầm quyền là phải có những chính sách “chăm dân”, “dưỡng dân” để xây dựng đất nước
phát triển, xã hội thái bình, thịnh trị. Công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh
đạo hiện nay cũng đang từng bước hướng tới đời sống ấm no, phồn vinh của nhân dân và xây dựng một
đội ngũ “công bộc” hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Tư tưởng của Lê Quý Đôn về dân
và xây dựng đội ngũ quan lại cần được tiếp tục nghiên cứu, phát triển và vận dụng vào xã hội ngày nay.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 268 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng Lê Quý Đôn về dân - Giá trị lịch sử và hiện thực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
106 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
Tư tưởng Lê Quý Đôn về dân - giá trị lịch sử và hiện thực
Le Quy Don's thought about the people - historical value and realistic
Phạm Vĕn Dự
Email: phamvandu84@gmail.com
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 29/12/2019
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 24/6/2020
Ngày chấp nhận đĕng: 30/6/2020
Tóm tắt
Thế kỷ XVIII là một giai đoạn lịch sử có nhiều biến động trong tiến trình phát triển của dân tộc. Chế độ
phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng. Cùng với việc đất nước bị phân chia
làm hai, Đàng Trong và Đàng Ngoài thì đời sống của nhân dân cũng gặp muôn vàn khó khĕn, dưới các
chính sách thuế khóa, lao dịch của nhà nước. Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đó, mặc dù xuất thân
từ một gia đình quan lại phong kiến, nhưng ở Lê Quý Đôn đã hình thành lên những tư tưởng chính trị hết
sức sâu sắc, đặc biệt là tư tưởng về dân, nó không chỉ có ý nghĩa bởi tính vượt trước đối với lịch sử tư
tưởng Việt Nam thời đại ông mà nó còn có ý nghĩa vượt thời gian đến ngày nay. Lê Quý Đôn đã có những
nhìn nhận và đánh giá đúng về vai trò của dân trong đời sống xã hội, từ đó ông đã đưa ra những yêu cầu
đối với giai cấp cầm quyền là phải có những chính sách “chĕm dân”, “dưỡng dân” để xây dựng đất nước
phát triển, xã hội thái bình, thịnh trị. Công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh
đạo hiện nay cũng đang từng bước hướng tới đời sống ấm no, phồn vinh của nhân dân và xây dựng một
đội ngũ “công bộc” hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Tư tưởng của Lê Quý Đôn về dân
và xây dựng đội ngũ quan lại cần được tiếp tục nghiên cứu, phát triển và vận dụng vào xã hội ngày nay.
Từ khóa: Lê Quý Đôn; trọng dân; dưỡng dân; dân là gốc của nước.
Abstract
The eighteenth century was a history period with many changes in the development process of the nation.
Vietnam's feudal regime has entered a period of serious crisis. With the country divided into two, inside
and Outside area, the people's lives also met many difficulties, under tax policies, labor of state. Born
and raised in that situation, although came from a feudal mandarin family, but with Le Quy Don formed a
profound political thought. But in Le Quy Don were formed very deep political ideas especially the thought
of the people, it was not only meaningful by the transcendence of the history of Vietnamese thought of
his time but it also has the meaning of timeless to this day. Le Quy Don has views and assessment of the
role of people in social life. Since then, he made requests to the ruling class to have policies "take care
of the people", "nurs of the people" to build a developing country, peaceful and prosperous society. The
country building and renovation work initiated and led by the Vietnamese Communist Party has been
gradually moving towards a warm life, prosperity of the people and building a team of "public servants"
wholeheartedly serving the country, serving the people, Le Quy Don's thoughts on the people and building
mandarins need to be further studied, develop and apply to today's society.
Keywords: Le Quy Don; important people; nursing people; people are the root of the country.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lê Quý Đôn sinh ra và lớn lên vào thời Lê trung
hưng, là nhà chính trị, nhà khoa học, nhà vĕn hóa
lỗi lạc của dân tộc. Tư tưởng về dân của ông bắt
nguồn và chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo
cũng như vĕn hóa, tư tưởng truyền thống của dân
tộc. Tư tưởng trọng dân của Lê Quý Đôn không
chỉ có ý nghĩa đối với thời đại ông mà nó còn nhiều
giá trị đối với hiện nay. Trong nội dung bài viết này
tác giả tập trung đi sâu phân tích nguồn gốc hình
thành tư tưởng về dân, nội dung cơ bản tư tưởng
về dân của Lê Quý Đôn và chỉ ra những giá trị của
nó đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ “công bộc” Người phản biện: 1. PGS.TS. Đoàn Ngọc Hải 2. TS. Phạm Thị Hồng Hoa
LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
107Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân trong giai
đoạn hiện nay.
2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG VỀ DÂN
CỦA LÊ QUÝ ĐÔN
2.1. Hoàn cảnh xuất thân
Lê Quý Đôn sinh nĕm 1726, thuở còn nhỏ có tên
là Lê Danh Phương, tự là Doãn Hậu, hiệu là Quế
Đường, quê tại làng Diên Hà, trấn Sơn Nam nay
là thôn Đồng Phú thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng
Hà, tỉnh Thái Bình. Lê Quý Đôn sinh ra trong một
gia đình quý tộc, nổi tiếng về khoa bảng và vĕn
chương. Thân phụ là Lê Trọng Thứ đậu tiến sĩ
(1724) làm quan đến Thượng thư Bộ hình và được
phong tước hầu, thân mẫu là Trương Thị Ích, ông
ngoại là Trương Minh Lượng đỗ tiến sĩ (1700) và
được phong tước hầu.
Những nhân tố về gia đình, phẩm chất cá nhân
có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát
triển tư tưởng của Lê Quý Đôn, thể hiện ở những
khía cạnh sau. Thứ nhất, Lê Quý Đôn là người có
tư chất thông minh, tư duy sáng tạo, ham học, ham
hiểu biết, sự mẫn cảm đối với thời thế. Thứ hai, Lê
Quý Đôn là người có ý chí và hoài bão lớn, có tinh
thần tự tôn dân tộc.
Theo sử sách ghi lại, Lê Quý Đôn nổi tiếng là người
có tư chất thông minh từ khi còn nhỏ, học rộng,
tài cao, thông kinh, bác sử “Hai tuổi đã biết đọc
chữ “hữu”, chữ “vô”. Nĕm tuổi thuộc lòng nhiều bài
Kinh thi. Mười một tuổi mỗi ngày học được hàng
trĕm trang sử. Mười bốn tuổi học hết Ngũ Kinh,
một ngày làm mười bài phú không cần viết nháp”
[9]. Trong công trình nghiên cứu Trí thức Việt Nam
xưa và nay, tác giả Vĕn Tân đã nhận định: "Lê Quý
Đôn là nhà bác học lớn nhất của nước Việt Nam
thời phong kiến. Suốt đời ông tỏ ra là một người
đọc sách không biết mệt mỏi và viết sách không
mệt mỏi"[11].
Xuất thân trong gia đình dòng dõi quan lại và những
tố chất cá nhân mang tính thiên bẩm đã có sự ảnh
hưởng rất lớn đến tư tưởng Lê Quý Đôn nói chung
và tư tưởng về dân của ông nói riêng.
2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Lê Quý Đôn sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn
lịch sử có rất nhiều biến động. Từ nửa cuối thế kỷ
XVII kinh tế - xã hội nước ta bước vào giai đoạn
khủng hoảng trầm trọng. Để phục vụ cho chiến
tranh và ĕn chơi xa xỉ của giới quý tộc. Triều đình
phong kiến đã đẩy mạnh bóc lột nông dân bằng
thuế khóa, phu phen, tạp dịch, cùng với đó là thiên
tai, địch họa liên miên làm cho rất nhiều nông dân
bị bần cùng hóa trên quy mô lớn. “Dưới gánh nặng
của thuế khóa lao dịch và các vụ chiếm đoạt đất
đai, người nông nghèo phải chạy trốn khỏi làng
mạc để rồi lang thang từ trấn này sang trấn khác
hay tới xin tá túc trong các trang trại của các ông
lớn. Sự xiêu tán này lại đẩy nhanh diễn tiến tập
trung hóa đất đai dẫn đến một loạt các cuộc nổi
dậy của nông dân” [8].
Cũng như nông nghiệp, thủ công nghiệp vào thời
kì này có nhiều thay đổi quan trọng, nghề cũ phát
triển, nghề mới phát triển, gắn với nhu cầu ngày
càng nhiều của tầng lớp quý tộc. Thương nghiệp
phát triển mạnh với sự thông thương hàng hóa với
tàu buôn của các nước châu Âu.
Trong giai đoạn thế kỷ XVII - XVIII bộ máy chính
quyền phong kiến từ trung ương đến địa phương
đều thối nát và đứng trước bờ vực của sự tan rã.
Vua Lê bù nhìn, chúa Trịnh ĕn chơi sa đọa, quần
thần lộng quyền ra sức vơ vét bóc lột nhân dân.
Bấy giờ đã dẫn kiêu binh nổi loạn, một biến cố
chưa từng có trong lịch sử chế độ phong kiến Việt
Nam từ trước đến nay. Chính điều này đã phản ánh
hiện thực chế độ phong kiến mục nát, loạn lạc cuối
thể kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII.
Chính quyền họ Trịnh ở Đàng Ngoài đã thâu tóm
mọi quyền hành trong tay, nĕm 1718 Trịnh Cương
thiết lập tại phủ chúa Lục phiên với nhiệm vụ làm
thay một phần công việc của Lục bộ của vua Lê.
Như vậy, bên cạnh triều đình - các chức quan lại
của vua, còn có triều đình với hệ thống quan lại
của phủ chúa. Vua Lê bù nhìn, chúa Trịnh thì ĕn
chơi phè phỡn, không chĕm lo cho đời sống nhân
dân, tham quan ô lại thì đầy rẫy triều chính. Trịnh
Cương để hết tâm trí vào việc ĕn chơi với việc cho
xây cung thất, đài cao, chùa chiền “Chúa bắt dân
cư thuộc ba huyện phải làm việc trong vòng sáu
tháng (Bắc Ninh) mà không xong... Người kế vị
chúa là Trịnh Giang (1729-1740) cũng có những
thú vui như vậy. Dân cư ba huyện phải bỏ ra một
nĕm 1730 để đào kênh, làm đường, ngày đêm
chuyển gỗ và đá để làm đẹp hai ngôi chùa Quỳnh
Lâm và Sùng Nghiêm... trong khi đó Trịnh Giang
vùi đầu vào các cuộc chơi, phung phí công quỹ cho
các cuộc đàn điếm của mình... tàn bạo nối gót các
đam mê. Trịnh Giang truất ngôi vua Lê nĕm 1731
và cho bóp cổ nhà vua bị truất phế. Nhiều quan
chức cao cấp bị giết. Chúa chỉ tin cậy đám hoạn
quan nên giao mọi quyền hành cho những người
này. Triều đình mỗi ngày một thối nát, bất lực, chia
rẽ thành phe cánh cấu xé nhau. Các quan chức
hàng tỉnh cũng noi theo và chỉ chú tâm, đặc biệt
là các quan lại phụ trách thuế khóa, vào việc xiết
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
108 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
cổ người dân, trong khi làng xã để mặc cho các
hương chức thao túng” [8].
Đến giữa thế kỷ XVIII triều đình phong kiến Đàng
Trong cũng giống như Đàng Ngoài đã rơi vào giai
đoạn khủng hoảng trầm trọng. Chúa Nguyễn và
bọn quan lại quý tộc đã lao vào cuộc sống xa xỉ và
bạo tàn. Theo Lê Quý Đôn miêu tả thì thành Phú
Xuân đầy rẫy cung điện nguy nga “Đài cao rực rỡ,
mà giải võ, tường bao quanh, cửa bốn bề, chạm
khắc vẽ vời, khéo đẹp cùng cực. Các nhà đều lát
nền bằng đá, trên lát ván kiền kiện... vườn sau
thì núi giả đá quý, ao vuông hồ quanh, cầu vòng
thủy tạ, tường trong tường ngoài đều xây dầy mấy
thước, lấy vôi và mảnh sứ đắp thành hình rồng,
phượng, lân, hổ, cỏ hoa... còn nhà vườn của các
công hầu quyền quý thì chia bày ở hai bờ thượng
lưu sông Phú Xuân, cùng hai bờ sông con bên hữu
phủ Cam” [6].
Họ Trịnh ở Đàng Ngoài, họ Nguyễn Đàng Trong,
đều dựa vào tấm bình phong là vua Lê để che đậy
mưu đồ riêng của mình. Nhân danh vua Lê hai bên
giao tranh với nhau trong suốt 50 nĕm, họ Nguyễn
cho rằng tiến hành chiến tranh tiêu diệt họ Trịnh
là để trả lại vua Lê thực quyền đã bị họ Trịnh tiếm
đoạt, còn họ Trịnh cho rằng tiến quân trinh phạt là
để bắt họ Nguyễn phục tùng vua Lê. “Từ nĕm 1627
đến 1672 đã có không dưới bảy cuộc giao tranh
diễn ra giữa hai kẻ kình địch, xen kẽ những cuộc
chiến tranh của họ Trịnh chống lại nhà Mạc chiếm
cứ đất Cao Bằng” [8]. Cuộc nội chiến Nam triều -
Bắc triều đã kéo dài hơn một thế kỷ đã không phân
chia thắng bại.
Sự suy đồi của chế độ phong kiến Việt Nam lúc bấy
giờ đã dẫn tới hàng loạt các cuộc nổi dậy của nông
dân như: Cuộc nổi dạy của người Nùng ở Tuyên
Quang (1686), cuộc nổi dạy của người Thái ở Lai
Châu (1721), nhà sư Nguyễn Dương Hùng nổi dạy
ở Tam Đảo (1737), nổi dạy của Nguyễn Hữu Cầu,
Nguyễn Danh Phương, Lê Duy Mật, đặc biệt là
khởi nghĩa Tây Sơn của Nguyễn Huệ Chính từ
nguồn gốc gia đình và thực tiễn điều kiện kinh tế -
xã hội lúc bấy giờ đã quy định nội dung tư tưởng về
dân của Lê Quý Đôn.
3. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA LÊ QUÝ ĐÔN
VỀ DÂN
3.1. Vai trò của dân trong đời sống xã hội
Lịch sử nhân loại và tiến trình lịch sử Việt Nam đã
chứng minh, nhân dân là lực lượng chính sản xuất
ra của cải vật chất trong xã hội. Những thành quả,
những giá trị vật chất và tinh thần mà xã hội có được
đều có mồ hôi, máu thịt của nhân dân mà thành.
Lê Quý Đôn là nhà chính trị, nhà khoa học, nhà vĕn
hóa nổi tiếng trong lịch sử dân tộc Việt Nam nói
chung và thế kỷ XVIII nói riêng đã có một tư tưởng
hết sức sâu sắc và biện chứng về nhân dân.
Kế thừa tư tưởng của Nho giáo và tư tưởng truyền
thống của dân tộc. Lê Quý Đôn hết sức đề cao vai
trò của dân, tư tưởng thân dân, lấy dân làm gốc
xuyên suốt trong tất cả các tác phẩm và trong tư
duy, hành động của ông. Trong tác phẩm Quần thư
khảo biện, tư tưởng lấy dân làm gốc được ông chỉ
rõ: “Gốc của nước là dân, mệnh của vua cũng là
dân. Bọn cường thần gây loạn bên trong, nước thù
địch quấy rối bên ngoài, điều đó chưa đáng lo lắm.
Chỉ khi lòng dân dao động mới là điều rất đáng sợ”
[5]. Chúng ta thấy, Lê Quý Đôn đánh giá rất đúng
bản chất và đề cao vai trò sức mạnh của dân. Theo
ông, dân là cội nguồn, gốc rễ của đất nước và cũng
chính dân đảm bảo cho uy quyền, địa vị của Vua.
Nắm bắt được quy luật phát triển của lịch sử và
từ thực tiễn lịch sử của thời đại, Lê Quý Đôn đã
đánh giá rất đúng vai trò của dân. Theo ông, dân
không chỉ là những người làm ra của cải vật chất
để nuôi sống chính mình mà còn nuôi sống bộ máy
cai trị và toàn xã hội. Những thành quả, những giá
trị vật chất và tinh thần ở mỗi giai đoạn mà xã hội
có được, chủ yếu là từ mồ hôi, máu thịt của nhân
dân mà thành “Dân là gốc của nước. Gốc có vững
thì nước mới yên Vua lãnh đạo dân, bảo gì dân
cũng làm theo, dân cống hiến cho vua hưởng thụ.
Nếu không để ý tới dân, chỉ thả mình theo ý riêng
thì dân sẽ không vâng mệnh nữa, bề tôi sẽ trở
thành thù địch, lộc trời sẽ hết. Vậy dân là đáng sợ,
đáng kính, chớ coi thường” [4].
Như vậy, chúng ta thấy Lê Quý Đôn đã nhận thức
và chỉ rõ vai trò, vị trí của dân trong sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước, đối với sự ổn định
và phát triển của xã hội.
3.2. Những yêu cầu đối với giai cấp thống trị
trong việc trị nước, an dân theo quan điểm của
Lê Quý Đôn
Theo Lê Quý Đôn, dân là gốc rễ của đất nước, đất
nước muốn hòa bình thịnh trị thì vua quan phải đặc
biệt quan tâm xây dựng nền “nhân chính”, chĕm lo
đến đời sống nhân dân, phải kính dân, trọng dân.
Trong Kinh Thư diễn nghĩa, Lê Quý Đôn đã đề cao
tư tưởng thương dân, trọng dân, đòi hỏi các vua
chúa, quan lại phải nuôi dân, dạy dân, cứu dân, phải
chĕm chỉ, tiết kiệm, khiêm tốn, lắng nghe nguyện
vọng và tiếng nói của dân “Khoan thứ, giản dị, hiếu
sinh là đức của kẻ làm vua” [4], “Làm theo ý dân
tức là làm theo ý trời” [4]. Vua, quan phải biết tôn
trọng sử dụng nhân tài, không xa hoa lãng phí của
LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC
109Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
cải, vì đó là mồ hôi xương máu của dân, phải biết
chĕm dân, dưỡng dân “lúc dân đang bị hạn lụt
tang hoang sao lại bắt dân đi xây thành đắp lũy” [4].
Đối với Lê Quý Đôn, vua, quan, công hầu, khanh
tướng hàng ngày ĕn uống, tiêu dùng là đều từ sức
dân mà ra, nếu người cầm quyền không hiểu sự vất
vả, cơ cực của dân thì sinh ra sao nhãng, phóng
dật, đã sao nhãng không chuyên tâm vào công việc
thì sẽ không biết quý trọng của cải của dân dẫn đến
tiêu dùng xa xỉ, tiêu dùng xa xỉ thì hại của, hại của thì
nhất định hại dân. Do đó, bậc thánh đế, minh vương
phải khoan thứ, giản dị, hiếu sinh không thích giết
người, tránh hình phạt hà khắc là đức nhân từ của
người làm vua, người cai trị đất nước, khuyến khích
nhân dân lao động sản xuất nông nghiệp, bảo vệ tài
nguyên lâm sản và thủy sản, có được như vậy thì
nhân dân no ấm, đất nước yên vui thái bình thịnh
trị, đây là một xã hội lý tưởng trong tư tưởng mà Lê
Quý Đôn mơ ước xây dựng nó giống như xã hội
thời vua Nghiêu, vua Thuấn.
Từ việc kính dân, trọng dân, Lê Quý Đôn cho rằng,
muốn cho dân không oán thù, nguyền rủa giai cấp
thống trị (vua, quan) thì phải làm thế nào? Duy
có giảm hình phạt, đánh nhẹ tô thuế mà thôi, mọi
chính sách của nhà nước phải làm cho dân no đủ,
khuyến khích nhân dân lao động sản xuất, làm lịch
để dân biết thời vụ canh tác, có chính sách bảo
vệ tài nguyên, coi trọng kỹ thuật sản xuất, trị thủy
theo đúng quy luật của thủy vĕn. Về tài chính, nhà
nước định chính sách thuế khóa phải công bằng,
chi dùng nên tiết kiệm, nhẹ bớt đóng góp của dân,
nâng cao đời sống vật chất cho dân. Khi xây dựng
các chính sách lớn, triều đình nên bàn với dân và
theo ý dân “Những việc làm quan trọng (như dời
đô) thì phải hỏi ý dân, công khai bàn bạc với dân
thường” [4]. Điểm đặc sắc nổi bật trong tư tưởng
của Lê Quý Đôn về dân, ông đã nhấn mạnh đến nội
hàm vấn đề, đó là cần phải biết vận dụng khoa học
để phục vụ đời sống nhân dân. Tư tưởng này của
ông không chỉ có ý nghĩa đối với thời đại ông (thế
kỷ XVIII) mà nó còn nguyên giá trị đối với xã hội
ngày nay khi Việt Nam đang đẩy mạnh xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong thời đại mà cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ.
Theo Lê Quý Đôn, người làm vua phải thông minh,
sáng suốt, trong sạch, giản dị, lành mạnh, tận tụy
với công việc, phải quyết đoán và biết trọng dụng
nhân tài. Bởi lẽ, theo ông, người làm vua phải biết
chọn người tài giỏi làm tướng, làm quan giúp vua
trị dân, hoàn thành được đạo làm vua “Bồi dưỡng
người có đức, nên chĕm chú cho được nảy nở tươi
tốt; trừ bỏ kẻ ác, nên làm cho tuyệt sạch gốc rễ” [4].
Đối với Lê Quý Đôn thì đặc biệt quan tâm đến hình
thức tổ chức bộ máy chính quyền và những tiêu
chuẩn của đội ngũ quan lại, mối quan hệ gắn kết
giữa vua và đội ngũ quan lại. Coi đội ngũ quan lại
giúp việc trong bộ máy triều đình là nhân tố quyết
định thành bại của việc thi hành đường lối trị nước
của vua, Lê Quý Đôn cho rằng, nguyên nhân nước
yếu là do dùng người tầm thường thay chỗ người
hiền tài. Ông cảnh báo việc người làm vua chỉ thích
dùng người giống mình, dùng kẻ hương nguyện,
không thích người tân tiến sẽ khiến người tài bị
hao mòn tráng chí, nguyên khí của quốc gia bị hao
tổn, dẫn tới sự suy yếu của thế nước. “Trong nước
bình yên hay loạn lạc là do ở các quan tài giỏi hay
ươn hèn. Được người tài giỏi gánh vác thì nước
bình yên, thịnh trị, bị kẻ thân cận có đức xấu, tranh
quyền cướp chức thì nước loạn” [4]. Đề cao việc
trọng dụng người tài trong đạo làm vua, Lê Quý
Đôn quan niệm bậc minh quân phải tùy tài mà trao
chức. Ông phân biệt ra ba loại người tài để tuỳ theo
mỗi loại mà dùng cho đúng mục đích, sở trường
của họ: Hạng tài nĕng, độ lượng siêu việt xuất
chúng; hạng bình thường, không có lỗi và hạng
bình tĩnh, hoà nhã, thích làm việc phải, thuỷ chung,
đem ba loại ấy để định luận nhân cách thì đều đắc
dụng ở triều. “Mỗi người đều có nĕng lực riêng của
mình, cần phải vun trồng những nĕng lực ấy để
họ đảm đương được các công việc khác nhau của
xã hội. Con người không ai không có nhược điểm,
nếu bài xích nhược điểm, thêm điều xấu vào nhược
điểm, nếu chỉ quan tâm đến sự nhút nhát, cho đó là
người hiền, người thực thà, là người có đạo đức rồi
cất nhắc họ thì bỏ qua nĕng lực thật sự của xã hội.
Nhân tài sinh ra và nuôi dưỡng rất khó mà phá đi
thì rất dễ, khí chất của kẻ sĩ làm cho nẩy nở thì rất
khó, song ngĕn trở nó thì rất dễ” [7]. Vốn xuất thân
từ của Khổng - Sân Trình, Lê Quý Đôn chịu ảnh
hưởng lớn của tư tưởng Nho giáo. Vì vậy, ông thấy
được và rất đề cao vai trò giáo dục dân trong việc
xây dựng một xã hội thái bình, thịnh trị. Theo ông,
để đường lối chính trị của nhà nước thấu đến muôn
dân, nhà nước phải giáo dục đạo đức và giáo dục
pháp luật cho dân. Phải thiết định pháp chế và phổ
biến luật pháp sâu rộng cho dân biết. Khi thực thi
pháp luật thì xét xử phải công bằng, không nhẹ với
quyền quý, nặng với dân hèn. Xét xử phải có lòng
thương xót và có mục đích giáo dục “Dạy nghĩa kết
hợp với dạy luật hình để đoàn kết nội bộ nhân dân
và giữ gìn trật tự an toàn xã hội” [4].
Đường lối chính trị với chủ trương “nhân trị”, “đức
trị” là nội dung cốt lõi của việc trị nước, an dân theo
quan điểm của Lê Quý Đôn, đây là những quy
chuẩn của bậc vua hiền và tôi sáng, đồng thời nó
cũng là những biện pháp đảm bảo cho việc thực
hiện đường lối đức trị, để xây dựng một xã hội
phong kiến lý tưởng theo quan điểm của Nho giáo.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
110 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020
4. Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG THÂN DÂN CỦA LÊ
QUÝ ĐÔN TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn đã có tư tưởng hết sức
đúng đắn, tiến bộ về vai