Tục làm vía của người thái ở miền Tây Nghệ An

Tóm tắt Phong tục tập quán vốn là những đặc trưng mang đậm nét văn hóa của từng cộng đồng tộc người; có những phong tục “ăn sâu, bám rễ” duy trì mối quan hệ, sự ổn định trong cộng đồng theo một trật tự nhất định, nếu nó bị phá vỡ, xáo trộn, thay đổi sẽ dẫn đến những biến đổi trong đời sống cộng đồng, xã hội. Việc nghiên cứu, bảo tồn giá trị văn hóa phong tục của các dân tộc là việc làm cần thiết, trong đó có tục làm vía (lễ buộc chỉ cổ tay) - một hoạt động văn hóa lễ tục mang màu sắc tín ngưỡng dân gian truyền thống của đồng bào Thái ở miền Tây Nghệ An.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 231 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tục làm vía của người thái ở miền Tây Nghệ An, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
35Số 24 - Tháng 6 - 2018 VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA TỤC LÀM VÍA CỦA NGƯỜI THÁI Ở MIỀN TÂY NGHỆ AN HOÀNG VĂN HÙNG Tóm tắt Phong tục tập quán vốn là những đặc trưng mang đậm nét văn hóa của từng cộng đồng tộc người; có những phong tục “ăn sâu, bám rễ” duy trì mối quan hệ, sự ổn định trong cộng đồng theo một trật tự nhất định, nếu nó bị phá vỡ, xáo trộn, thay đổi sẽ dẫn đến những biến đổi trong đời sống cộng đồng, xã hội. Việc nghiên cứu, bảo tồn giá trị văn hóa phong tục của các dân tộc là việc làm cần thiết, trong đó có tục làm vía (lễ buộc chỉ cổ tay) - một hoạt động văn hóa lễ tục mang màu sắc tín ngưỡng dân gian truyền thống của đồng bào Thái ở miền Tây Nghệ An. Từ khóa: Phong tục, tập quán, tục làm vía, người Thái Abstract Customs and traditions are cultural characteristics of each community, there are many “deep rooted” customs that maintain the relationship, stability in the community in a certain order, if they are shattered, disordered, and changed, it will lead to changes in the life of society and community. Researching and preserving ethnic minorities’ cultural value of customs, including “Lam via” (the hand binding spirits pacification), a cultural activity of ceremony and custom characterized by traditional folk beliefs is a necessary act. Keywords: Customs, traditions, lam via (spirits pacification ceremony), Thai ethnic minority Miền Tây Nghệ An là nơi sinh tụ của đồng bào các dân tộc thiểu số gồm các dân tộc Hmông, Khơ mú, Thái, Thổ và Kinh. Trong đó người Thái có 314.739 người, chiếm 73% tổng số cư dân các dân tộc thiểu số trong tỉnh. Họ cư trú ở hầu hết các huyện trung du và miền núi gồm các huyện: Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong. Miền Tây Nghệ An có diện tích 13.890 km2, chiếm 84% diện tích toàn tỉnh. Phía bắc miền Tây Nghệ An giáp miền núi tỉnh Thanh Hoá, phía tây giáp Lào với đường biên giới dài 419km; phía nam giáp vùng núi tỉnh Hà Tĩnh và phía đông giáp các huyện đồng bằng ven biển Nghệ An. Đặc điểm của địa hình miền Tây Nghệ An là cả một hệ thống các dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Xen lẫn giữa các ngọn núi là các thung lũng vừa và nhỏ thuận tiện cho việc canh tác ruộng nước. Thiên nhiên miền Tây Nghệ An có nhiều nét đặc thù đã tạo nên nét riêng biệt, nhất là về văn hoá mang tính tộc người, tính khu vực sâu sắc. Tục làm vía của người Thái ở miền Tây Nghệ An có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào Thái. Họ cầu mong các thần linh phù hộ cho con người lúc nào cũng gặp may mắn, điều lành, không làm cái ác, coi cái thiện là mục tiêu, là khát vọng của các thành viên trong gia đình. Trong đời Số 24 - Tháng 6 - 201836 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA sống tâm linh của người Thái ở Việt Nam nói chung, người Thái ở Nghệ An nói riêng, con người sống được là nhờ có vẳn/khoẳn (linh hồn) ngụ trong thể xác. Số lượng hồn/vía cụ thể ngụ trong cơ thể mỗi con người không thể tính hết được, chỉ biết hồn được phân bố đều trên khắp cơ thể con người. Văn tế khi cúng của họ có câu: Xam xíp khoăn/văn tàng nà, hà xíp khoăn tàng lăng, khoăn chung chăng xoong xàng (30 hồn đằng trước, 50 hồn phía sau, hồn lau nhau ngụ hai bên sườn). Trong số các hồn kể trên có một hồn chủ, hồn gốc (vẳn tổn) ngụ ở đỉnh đầu (chom văn), vì thế, người Thái ở miền Tây Nghệ An kiêng việc đụng chạm vào đầu, đánh vào đầu, vì sợ hồn chủ sẽ lìa khỏi thân xác, dẫn đến ốm đau, bệnh tật, hoặc chết. Theo quan niệm của họ, đôi khi hồn/vía tách khỏi thể xác để chu du đâu đó. Khi tách khỏi thể xác, hồn/vía cũng được coi là một loại phi, nên nó còn có tên gọi là phi văn. Khi ở trong cơ thể con người, văn làm chức năng duy trì sự sống. Khi tách hồn/vía (văn/khuăn) ra khỏi cơ thể hay rời bỏ một bộ phận nào đó của con người thì lập tức bộ phận đó sẽ bị đau ốm. Vì thế, người ta phải thịt gà cúng (làm vía) để gọi hồn. Trước hết, người ta đem áo của người ốm đến nhờ thầy (mo) gieo quẻ để biết hồn lạc ở đâu, hướng nào mới làm lễ gọi hồn về. Trong đời sống tâm linh của người Thái ở miền Tây Nghệ An, vẳn là một lực lượng siêu linh có khả năng đem lại sức sống cho phần thể xác của con người. Nhưng vẳn là linh hồn không biết “chết”, do vậy, khi con người chết đi, thể xác không còn tồn tại được nữa, vẳn buộc phải tìm kiếm một phương thức tồn tại mới. Hay nói một cách khác, khi con người về già, theo quy luật của tự nhiên, thân xác tự huỷ hoại dần và mất đi. Do đó, cơ sở vật chất để vẳn tồn tại không còn nữa, nó buộc phải tìm cách tích hợp vào một cộng đồng mới, đó là cộng đồng của các phi. Theo quan niệm của người Thái, con người khi chết linh hồn sẽ trở thành phi tổ tiên, nhưng nếu còn nuối tiếc cuộc sống nơi trần gian thì vẫn có thể tiếp tục đầu thai vào con cháu để làm kiếp người thêm một lần nữa. Nhưng vì bàn thờ ở hóng đã có phỉ hướn, nên các phi tổ tiên phải tìm cách tích hợp vào một nơi nào đó ở trong nhà. Xuất phát từ quan niệm trên đây, người Thái ở đây cho rằng, xung quanh nhà ở của họ chỗ nào cũng có phi tổ tiên. Những loại phi sau đây đều được người Thái coi là những phi tổ tiên. Đó là phỉ nửa hủa, phỉ chốn đan, là những phi ở trên nóc nhà và phi ở nơi ngạch cửa nhà của người Thái. Những phi này trông coi và bảo vệ không cho các phi ở ngoài xâm nhập qua cửa ra vào và hai đầu nóc nhà để rủ rê hoặc bắt mất hồn vía của con cháu. Pù châu xưa nặm bọ, nhà châu xưa họ hướn là những phi làm chủ rãnh nước nơi mái hiên nhà. Các phi này có nhiệm vụ bảo vệ và trông coi những đứa trẻ chơi ở xung quanh nhà sàn và gần cầu thang để chúng không ngã xuống đất. Phỉ nóng né là phi trông coi nơi đọng nước vệ sinh ở dưới gầm sàn. Chúng có nhiệm vụ trông coi và bảo vệ hồn vía của con cháu trong nhà, không để các hồn vía chìm đắm trong vũng nước bẩn đó sẽ sinh ra đau ốm, bệnh tật. Phỉ noọc hướn, là linh hồn của những người không có con trai, khi chết con gái làm một nhà chòi nhỏ để thờ ở góc vườn gọi là pán xớ phỉ noọc hướn. Tín ngưỡng này xuất phát từ quan niệm cho rằng, phỉ noọc hướn là ma ngoài (thuộc bên vợ), nên chúng không thể ở cùng một nhà với phỉ hướn của bên chồng. Nếu điều đó xảy ra, có nghĩa là con người đã làm trái với luật của trời đất và như vậy tất yếu sẽ gặp chuyện chẳng lành, làm ăn xui xẻo, gia đình ốm đau. Còn đối với những người chết trong các trường hợp khác thường, thì hồn ma của họ không được vào đẳm chào. Do đó, chúng không có ai thờ cúng và vì thế cũng không được gọi là phi tổ tiên. Cho nên, mặc nhiên chúng trở thành những phi có hại và thường gây ra những chuyện chẳng lành cho con người ở dưới trần gian. Trong quan niệm của người Thái, phi tổ tiên là những vị thần phúc hậu luôn quan tâm chăm sóc và bảo vệ cho cuộc sống của con 37Số 24 - Tháng 6 - 2018 VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA cháu ở mường Lùm. Bởi vậy, trong cuộc sống nếu con người gặp phải những khó khăn hay bất trắc, người ta thường cầu xin đến sự giúp đỡ và phò trợ của phi tổ tiên. Trong những trường hợp bất thường, nghi lễ cầu xin phi tổ tiên không đòi hỏi phải cầu kỳ; nhưng muốn được phi tổ tiên giúp đỡ người ta vẫn phải chuẩn bị một phần lễ vật, ít hay nhiều là tuỳ thuộc vào gia cảnh của từng người. Thông thường, lễ vật đó bao gồm một con gà, một chai rượu và một đĩa trầu cau. Chủ nhà đặt lễ vật lên bàn thờ phỉ hướn, trình bày lý do và nói rõ yêu cầu cần được tổ tiên giúp đỡ. Tuy nhiên, muốn tổ tiên thường xuyên phù hộ và giúp đỡ thì con cháu cũng phải có “nghĩa vụ” đối với ông bà tổ tiên. Mục đích, bản chất, ý nghĩa của tục làm vía Mục đích của tục làm vía Trong cuộc đời mỗi con người, từ lúc sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời, với người Thái ở Việt Nam có rất nhiều lễ cúng vía theo chu trình của đời người (sinh - bệnh - lão - tử) nhằm mục đích giúp con người có thêm nghị lực, niềm tin, để có sức khỏe, có đạo đức, có một cuộc sống dài lâu, ấm no, hạnh phúc, hiểu biết về đạo lý và sống có trách nhiệm với cộng đồng và tự nhiên. Có thể trong những buổi đầu sơ khai, khi cuộc sống con người chưa phát triển, chưa đủ năng lực chế ngự thiên nhiên khắc nghiệt và chống lại kẻ thù, người Thái Việt Nam cũng như các dân tộc khác phải cầu khẩn các thế lực siêu nhiên ban cho họ sự sống, nghị lực và niềm tin vượt mọi khó khăn trong cuộc sống. Dần dần cùng với sự phát triển của xã hội, trải qua sự chắt lọc từ ngàn đời, việc cúng vía bớt dần mầu sắc mê tín dị đoan, trở thành những nét đẹp văn hóa đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Đồng bào Thái ở Nghệ An nói chung, miền Tây Nghệ An nói riêng, quan niệm rằng: Con người ta tồn tại được là nhờ có linh hồn, linh hồn của người nào được khỏe mạnh, thoải mái thì người đó mới được mạnh khỏe và hoạt động bình thường. Ngược lại, linh hồn của người nào không khoẻ mạnh thì người đó không bình thường, không minh mẫn. Để minh mẫn làm ăn được, người Thái rất quan tâm đến phần hồn, ngay cả khi còn sống. Mỗi khi có sự việc liên quan đến tinh thần, tình cảm Mâm lễ cúng vía Số 24 - Tháng 6 - 201838 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA là đồng bào tổ chức lễ nhằm động viên, bồi dưỡng hoặc tìm gọi linh hồn về. Việc tổ chức làm lễ như vậy đều được gọi là làm vía (ê vắn). Hầu hết đồng bào Thái đều được làm vía, số lần làm vía của mỗi người ít, nhiều có khác nhau, nhưng không có ai là không làm và mỗi lần làm đều có mục đích, yêu cầu cụ thể khác nhau, ngay cả cách gọi tên lễ cũng khác nhau. Bản chất của tục làm vía Tục làm vía đã tồn tại rất lâu trong đời sống đồng bào dân tộc Thái ở miền Tây Nghệ An. Làm vía thực chất là việc anh em, họ hàng động viên, khích lệ người được làm vía để họ tự tin hơn trong cuộc sống, là cách cộng đồng thể hiện sự quan tâm đến một cá nhân nào đó theo tinh thần “mọi người vì một người”. Gạt bỏ những hủ tục ít nhiều còn rơi rớt, phần tốt đẹp của phong tục này chính là sự cố kết cộng đồng, là nơi hội tụ của mọi người trong gia đình, trong họ hàng làng xóm chuyện trò tâm sự, khuyên bảo con cháu và mọi người phải biết tôn trọng lẫn nhau, đặc biệt phải có hiếu với ông bà, cha mẹ, độ lượng với nhau nhường cơm sẻ áo, biết sống nhân ái vì cộng đồng. Mỗi khi làm lễ buộc chỉ cổ tay cho một thành viên trong gia đình hay dòng họ thì càng thể hiện rõ sự tồn tại và trật tự gia đình, dòng họ. Các thành viên trong gia đình, dòng họ có quan hệ mật thiết đều phải có mặt đầy đủ. Khi đến làm lễ buộc chỉ cổ tay, họ rất chân tình, chu đáo, nhiệt tình, hỏi thăm nhau về sức khỏe bản thân, con cháu, hai bên gia đình nội ngoại... Đây là một hành động, cử chỉ rất đẹp mắt. Người trong họ tộc đến làm lễ buộc chỉ cổ tay cho một thành viên trong gia đình bao giờ cũng kèm theo lễ vật như: Người thì quả trứng, người thì chai rượu, người thì con gà, người thì ép xôi, người thì có tiền từ 20.000đ - 50.000đ. Người chủ gia đình đứng ra nhận lễ vật, chào hỏi, vui tươi niềm nở và nói lời cảm ơn vui vẻ, thể hiện tấm lòng trân trọng, quý mến anh em dòng tộc. Đối với tục làm vía, vật có ý nghĩa hết sức quan trọng là cái áo của người được làm vía. Người ta cho rằng áo là vật tượng trưng cho con người và hồn vía sẽ theo cái áo đó mà trở về với thể xác của nó. Khi làm lễ buộc chỉ cổ tay, thầy mo là người chủ trì, đưa áo đi gọi linh hồn ở ngã ba đường, hay ngoài khe suối về nhà; khi gọi linh hồn/vía về nhà rồi thì thầy mo có bài cúng mời linh hồn ăn và giãi bày ý nguyện. Tục làm vía buộc chỉ cổ tay theo một qui định có tuần tự: Thầy mo làm vía cho ai thì phải buộc chỉ cổ tay cho người đó trước, sau đó mới lần lượt buộc chỉ cổ tay cho các thành viên trong gia đình, tuần tự từ người nhiều tuổi nhất rồi đến người ít tuổi nhất, còn anh em nội ngoại hay khách của gia đình thì buộc chỉ cổ tay sau cùng. Theo tục của đồng bào Thái khi buộc chỉ cổ tay, thầy mo đọc bài cúng và bốc vía, sau đó thầy mo và cùng các thành viên trong gia đình được ăn trước một miếng gan gà hay gan lợn trong mâm cúng, đồng bào Thái gọi là tóm vắn, có nghĩa là: Mình ăn cùng với linh hồn của mình cho có bạn. Kể từ nay về sau hồn với xác không bao giờ lìa xa nhau. Trong ngày làm vía, thầy mo được cả gia đình, họ hàng nội tộc kính nể nhất, cho dù thầy mo là người ít tuổi hơn. Khi thầy mo làm lễ buộc chỉ cổ tay xong nhà chủ phải cử một người đưa thầy mo về đến nhà và có chút ít quà lễ vật của lễ buộc chỉ cổ tay như: một nửa con gà với đĩa xôi, một ít hoa quả, mà đồng bào Thái ở miền Tây Nghệ An gọi là xống mo. Ý nghĩa của tục làm vía Phong tục làm lễ buộc chỉ cổ tay của đồng bào Thái ở miền Tây Nghệ An là một hoạt động văn hóa lễ tục vùng. Chúng ta rất dễ nhận thấy tính chất nguyên hợp của loại hình văn hóa này, nó phản ánh đầy đủ đời sống tâm linh của gia đình, dòng họ, dòng tộc người Thái trong vùng. Bất cứ một thành viên nào trong gia đình dòng họ, cứ tuần tự theo một vòng đời đến 39Số 24 - Tháng 6 - 2018 VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA thời kỳ làm lễ buộc chỉ cổ tay là phải làm lễ như: làm lễ buộc chỉ cổ tay cho một thành viên trong gia đình đến tuổi trưởng thành về việc hẹn bao, hẹn xáo; làm lễ buộc chỉ cổ tay cho đôi vợ chồng tân hôn mới ê vẳn; buộc chỉ cổ tay về việc người phụ nữ được làm mẹ nàng, trẻ em mới sinh ê khooc, ê vẳn; đối với đàn ông khi hết hạn để tang thì làm lễ buộc chỉ cổ tay về pất khò; buộc chỉ cổ tay cho người thành đạt, có công với bản làng, dòng họ; trong đó ê vẳn cho người ốm đau, bệnh tật, tai nạn được quan tâm nhiều hơn vì họ cần được động viên tinh thần để vượt qua chính mình Cách thức tổ chức và các trình tự, thao tác trong phong tục ê vẳn của đồng bào Thái tuy đơn sơ nhưng rất trang trọng và khá bền vững. Đây không chỉ biểu hiện sự tôn trọng, kính nể, tin tưởng lẫn nhau mà còn mang ý nghĩa văn hóa xã hội và tính cố kết cộng đồng rất cao. Tục làm lễ buộc chỉ cổ tay (hằng vắn - tiếng địa phương gọi là bốc vía) được thực hiện khi trong gia đình có một thành viên nằm ngủ hay mơ màng thấy mình đang ở chỗ này, chỗ kia đi thất lạc chưa về nhà (vắn lống). Sau khi thầy mo xem áo (moi xừa) nhận định đúng lý do người này mơ màng là do linh hồn chưa về với thể xác thì chủ nhà phải mời thầy mo đến nhà tổ chức làm lễ buộc chỉ cổ tay cho người đó. Bằng hình thức nhờ thầy mo buộc chỉ cổ tay để thuyết phục linh hồn trở về với thể xác của mình, tục làm lễ buộc chỉ cổ tay là sự tích lũy nhiều tình tiết văn hóa tín ngưỡng, là biện pháp giải quyết tâm lý cho người ốm yên tâm và tự tin vào chính mình để chiến thắng bệnh tật. Các hình thức làm vía Gọi hồn lạc (hong vẳn ỏn) Đây là cách gọi hồn đơn giản nhất, do con người khi đang làm một việc gì đó tự nhiên giật mình sợ hãi làm cho hồn vía rời khỏi cơ thể không biết đường trở về. Để gọi hồn lạc, người ta lấy áo của người ốm cho vào trong một cái giỏ, bỏ thêm vào đó một gói cơm, một con gà luộc chín, hoặc một gói muối. Sau đó thầy mo cầm giỏ ra ngã ba đầu bản gọi hồn. Thời điểm gọi hồn thích hợp nhất là lúc xế chiều, bởi người Thái cho rằng, hồn vía cũng như con người, ban ngày mải mê làm việc, tối đến mới về nhà. Nhưng vì hồn bị lạc không biết đường về, nên người nhà phải ra đầu bản để đón. Gọi hồn xong, người nhà phải làm thịt một con gà hoặc có thể thay bằng cá nướng, để cúng cho hồn vía người ốm được khoẻ mạnh. Gà sau khi luộc chín được chia làm 3 phần, trong đó có 2 phần thịt và một phần gồm có đầu, chân, lòng, mề. Trong mâm cũng còn phải có thêm một nắm xôi, 2 cái bát và 5 đôi đũa. Mâm cúng được đặt ngay tại chân giường người ốm. Lúc thầy mo thực hành nghi lễ, người ốm phải ngồi bên cạnh mâm cúng (nếu đi bệnh viện hay vì lý do nào đó mà vắng nhà thì phải lấy áo đặt cạnh mâm). Sau lễ cúng hồn, người ốm ăn 3 miếng ở 3 phần thịt trong mâm cúng (nếu vắng nhà người ta lấy 3 miếng bỏ vào túi áo) gọi là tỏm vẳn. Người ốm tỏm vẳn xong, thầy mo lấy 2 sợi chỉ đen hoặc sợi gai buộc vào cổ tay người ốm (trường hợp người ốm vắng nhà thì buộc vào ống tay áo) để cầm vía, không cho chúng ra ngoài. Tìm hồn lạc (xọc vẳn) Đây là cách gọi hồn được tiến hành trực tiếp ngay tại nhà người ốm. Lễ vật chuẩn bị gồm có gà, xôi, rượu (nếu có cả rượu cần thì càng tốt). Lễ cúng này phải do mo một, mo môn đảm nhiệm. Vì chỉ có những người làm mo mới biết sử dụng các bài cúng một cách bài bản và chỉ có thầy mo mới biết sử dụng các pháp thuật để sai khiến âm binh tìm hồn lạc về. Trong quá trình cúng (xến) tìm hồn vía lạc, thầy mo còn mời cả đăm na hòng (linh hồn cha mẹ đã chết thờ ở hóng) và pù xưa (thần bản) đi cùng để nhận vía của người ốm. Khi kết thúc lễ tìm hồn lạc, người nhà cũng làm một con gà để cúng “làm vía” cho hồn của người ốm và sau đó làm lễ buộc vía để hồn vía người ốm được khoẻ mạnh. Số 24 - Tháng 6 - 201840 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Đưa hồn lạc trở về với thể xác (òi vẳn) Đây là cách gọi hồn khi hồn vía người ốm bị lạc vào một nơi mà ở đó quá vui, ma quỷ nơi đó lại tiếp đón rất chu đáo, nên hồn người ốm không muốn về. Để tổ chức lễ òi vẳn, thầy mo phải tìm một địa điểm mà hàng ngày người ốm vẫn thường hay lui tới để dựng 1 cái trạm gọi là huồng. Tại đây, thầy mo dựng lên nhiều cảnh vật núi, rừng, bản - mường, chợ búa với nhiều của ngon, vật lạ, tổ chức nhiều trò chơi dân gian thật đông vui để hồn vía lạc tìm đến chơi. Từ đó, ông mo mới phát hiện ra hồn vía của người ốm mà dụ dỗ chúng về. Sau lễ gọi hồn, người nhà cũng làm 1 con gà để cúng cho hồn vía người ốm được khoẻ mạnh và sau đó làm lễ buộc vía cho người ốm. Gọi hồn cho người cao tuổi (hong vẳn dong chấu) Đây là cách gọi hồn cho những người có tuổi. Theo quan niệm của người Thái, con người lúc về già, hồn vía thường ra khỏi “thân chủ” của nó để đến với ông bà, tổ tiên. Do vậy, khi biết hồn vía của người đó đã đi với tổ tiên, người ta phải làm một lễ cúng lên đẳm chào để gọi hồn về gọi là hong vẳn dong chấu. Để tổ chức nghi lễ tín ngưỡng này, người ta phải chuẩn bị một mâm cúng gồm có: một cái giỏ, trong đó có một cái áo của người ốm, một gói cơm, một gói muối (nếu nhà có điều kiện có thể thay bằng thịt gà); một chai rượu với 2 cái chén; một đĩa trầu 5 miếng và một que củi đã cháy dở một đầu. Mâm cúng được đặt trong một cái chiếu trải sẵn trước cầu thang lên xuống. Lễ cúng này phải do một người làm nghề mo môn hoặc nghề mo một đảm nhiệm và thường kéo dài từ 5 đến 8 giờ mới xong. Sau lễ gọi hồn, người ta làm lễ cúng đón hồn trở về gọi là (tỏm vẳn) và cuối cùng, phải làm lễ buộc vía để giữ cho hồn vía khỏi ra ngoài. Ngoài những nghi lễ gọi hồn kể trên, trong tập quán của người Thái ở miền Tây Nghệ An còn có nghi lễ đón vía lớn (tỏm vẳn huổng). Xuất phát từ quan niệm hồn vía con người khi về già thường sang bên ngoại ở với bố mẹ vợ một thời gian, do vậy, cứ vào khoảng độ trên dưới 70 tuổi, người Thái ở đây thường tổ chức làm lễ gửi áo sang nhà bố mẹ vợ (củ xưa). Dĩ nhiên, khi đưa hồn/vía sang gửi nhà bố mẹ vợ, bên gửi áo phải chuẩn bị một lễ nhỏ gồm có 1 đôi gà, 1 chai rượu để cúng cho ông bà tổ tiên bên ngoại biết vợ chồng đã về làm lễ củ xưa. Thời gian gửi áo lâu hay mau là tuỳ thuộc vào công việc chuẩn bị của gia đình. Bởi muốn đón hồn/vía trở về, trước hết gia đình phải chuẩn bị 1 con lợn vía (mủ vẳn). Lợn được dùng để cúng trong lễ vẳn huổng phải là con lợn trước đó đã được thầy mo làm lễ đánh dấu để hồn vía của vợ chồng gửi áo nhận và chăm sóc nó. Theo người Thái, đây là con vật rất thiêng, do vậy, khi đã làm lễ đánh dấu rồi thì không được sử dụng vào những mục đích khác (trừ khi thời gian gửi áo quá lâu phải làm lễ xin hồn vía cho thay lại con khác). Thông thường, khi lợn vía đã lớn, con cháu trong nhà tổ chức đi đón vía về gọi là tỏm vẳn. Để đón vía về, theo phong tục