Nuôi cá tra thương phẩm đạt hiệu quả cao phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, trong đó chất lượng con giống là một trong
những khâu quyết định. Tuy nhiên, chất lượng cá tra
giống hiện đang nằm trong tình trạng “báo động đỏ”.
Nếu không có những giải pháp để nâng cao chất lượng
con giống thì ngành cá tra Việt Nam sẽ phải đối diện với
nhiều hệ lụy.
13 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1273 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tương lai cá tra - Nhìn từ giống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tương lai cá tra - Nhìn từ
giống
Nuôi cá tra thương phẩm đạt hiệu quả cao phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, trong đó chất lượng con giống là một trong
những khâu quyết định. Tuy nhiên, chất lượng cá tra
giống hiện đang nằm trong tình trạng “báo động đỏ”.
Nếu không có những giải pháp để nâng cao chất lượng
con giống thì ngành cá tra Việt Nam sẽ phải đối diện với
nhiều hệ lụy.
Tỷ lệ hao hụt lớn
Giống là yếu tố rất quan trọng giúp nâng cao chất lượng sản
phẩm cá tra xuất khẩu, đồng thời làm tăng giá trị lợi nhuận và
giảm thiểu rủi ro cho người nuôi.
Hiện nay, toàn vùng ĐBSCL có khoảng 200 trại sinh sản cá
tra bột và 4.000 hộ ương cá giống. Sản lượng cá giống toàn
vùng đạt trên dưới 2 tỷ con mỗi năm, về cơ bản đáp ứng cho
nhu cầu nuôi. Tuy nhiên, do thị trường cá tra nguyên liệu
không ổn định đã dẫn đến tình hình sản xuất cá tra giống
cũng bị ảnh hưởng tiêu cực.
Việc sản xuất giống cá tra hiện nay mặc dù phát triển theo
quy luật cung – cầu nhưng còn mang tính tự phát, sản xuất
chạy theo số lượng, không quan tâm đến chất lượng. Nhiều
cơ sở sản xuất giống không đảm bảo các điều kiện sản xuất,
kinh doanh. Chất lượng con giống không bảo đảm, gây hao
hụt trong quá trình nuôi.
Theo Chi cục Thủy sản Tiền Giang, tỷ lệ hao hụt trong các ao
nuôi cá tra hiện nay lên đến 30 - 35%, cá biệt có những ao
nuôi cá tra có tỷ lệ hao hụt lên đến 40 - 50% do thả cá với
mật độ quá cao (trên 100 con/m2).
Chi phí nuôi tăng cao
Trước đây, do chất lượng cá giống khá tốt, thời gian nuôi chỉ
mất 5 - 6 tháng là đã có cá đạt kích cỡ đúng tiêu chuẩn xuất
khẩu (khoảng 0,8-0,9 kg/con), hệ số thức ăn (FCR) đạt
khoảng 1,5 - 1,6.
Còn hiện nay, khi chất lượng cá tra giống đang suy giảm, để
đạt được kích cỡ cá trên, người nuôi phải mất 7 - 8 tháng,
FCR lên đến 1,7 - 1,8. Đó là chưa tính đến lượng thức ăn bị
lãng phí do đã cho số cá sau đó bị chết ăn.
Do đó, chi phí thức ăn trong quá trình nuôi đối với mỗi ha
cũng tăng thêm khoảng 500 - 600 triệu đồng. Điều này đồng
nghĩa với việc giá thành mỗi kg cá cũng tăng tương ứng thêm
1.500 - 2.000 đồng/kg.
Chất lượng cá nguyên liệu giảm sút
Chất lượng cá tra giống giảm khiến người nuôi phải mất 7 -
8 tháng để có cá cỡ 0,8 - 0,9 kg/con - Ảnh: Lê Vũ
Chất lượng giống cá tra thấp không những ảnh hưởng lớn đến
tỷ lệ sống của cá nuôi, năng suất và thời vụ mà còn ảnh
hưởng đến cả chất lượng cá nguyên liệu. Chất lượng cá
nguyên liệu bị giảm sút một cách trầm trọng. Cá dễ bị còi
cọc, dị hình, màu thịt cơ xấu, tỷ lệ thu hồi fillet giảm.
>> Theo
ông
Nguyễn
Huy Điền
- Phó
Tổng cục
trưởng
Tổng cục
Thủy sản,
việc cải
thiện chất
lượng
giống cá
tra là
không thể
chần
chừ, chờ
đợi thêm
nữa, mà
phải bắt
tay vào
làm quyết
liệt ngay
từ bây
giờ
Theo kết quả điều tra tại các nhà máy chế biến, tỷ lệ fillet cá
tra thường đạt khoảng 35%, còn lại 65% là phế phẩm như
xương, da, thịt vụn, nội tạng, mỡ Đối với các phế phẩm
này, ngoài một số phần được tách riêng để chế biến tiếp
thành những sản phẩm giá trị gia tăng tiêu dùng nội địa như
bong bóng, bao tử, thịt vụn, mỡ thì phần còn lại chủ yếu vẫn
được bán xô để làm bột cá.
Theo Bộ NN&PTNT, vùng ĐBSCL hiện có 193 nhà máy chế
biến thủy sản (chủ yếu là cá tra và tôm) với tổng công suất
thiết kế trên 1,2 triệu tấn/năm. Chính vì vậy, lượng phế phẩm
sau khi fillet cá là rất lớn. Nâng cao chất lượng con giống
chắc chắn sẽ nâng cao được tỷ lệ fillet cá, cũng đồng nghĩa
với việc giảm lượng phế phẩm dồi dào, tăng hiệu quả sản
xuất, giảm nhẹ việc xử lý chất thải, tránh lãng phí nguyên
liệu...
Dịch bệnh cũng nhiều hơn
Theo kết quả khảo sát gần đây của Trung tâm Quốc gia
Giống thuỷ sản nước ngọt Nam Bộ, tỷ lệ cá tra nuôi ở
ĐBSCL bị nhiễm bệnh là khá cao. Hầu như tất cả các vùng
nuôi đều xuất hiện những loại bệnh phổ biến trên cá tra như
xuất huyết, trắng mang, trắng gan, và nhất là căn bệnh nguy
hiểm gan thận mủ Có những vùng nuôi, tỷ lệ cá tra nhiễm
bệnh gần như tới 100%.
Cá tra ở ĐBSCL bị bệnh từ nhiều nguyên nhân. Trước hết, là
do cá bị nhiễm khuẩn gây các bệnh xuất huyết, đốm trắng,
hoặc bị các loài ký sinh trùng (trùng mặt trời, trùng bánh
xe), giáp xác ký sinh và nấm gây hại. Bên cạnh đó, chế độ
dinh dưỡng cho cá không cân đối đã gây ra hội chứng thiếu
vitamin, thiếu canxi; môi trường vùng nuôi bị ô nhiễm
Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất chính là chất lượng cá
tra giống đã xuống cấp đến mức đáng báo động. Chất lượng
đàn cá bố mẹ bị thoái hóa, lai cận huyết, sự cạnh tranh thiếu
lành mạnh giữa các cơ sở sản xuất cá bột, cho cá đẻ ép, đẻ
non và đẻ nhiều lần trong năm
Do đó, việc nâng cao chất lượng con giống để có con giống
sạch bệnh, có sức đề kháng tốt, tốc độ tăng trưởng nhanh
nhằm tạo điều kiện cho quá trình nuôi thương phẩm gặp
nhiều thuận lợi hơn là điều rất cần thiết.
Đe dọa tới môi trường
Chi phí tăng cao nên trên thực tế nông dân thường ương cá
với mật độ cao hơn rất nhiều với mật độ được khuyến cáo.
Hầu hết các hộ nuôi đều thả cá với mật độ có khi lên tới 60 –
100 con/m2.
Chất lượng con giống cá tra suy giảm kéo theo nhiều hệ lụy -
Ảnh: Bảo Yến
Mật độ con giống cao nên lượng chất thải trong quá trình
nuôi như thức ăn dư thừa, chất thải của cá, cá chết... đều cao
hơn mức bình thường. Điều này khiến chất lượng nước suy
giảm nhanh chóng. Chất lượng con giống kém, sức đề kháng
yếu nên dịch bệnh dễ xảy ra, nhất là vào giai đoạn chuyển
mùa. Theo nghiên cứu gần đây của trường Đại học Cần Thơ,
tỷ lệ cá tra nhiễm bệnh ở một số vùng nuôi đã lên đến gần
100%.
Ở những vùng nuôi cá chết nhiều, môi trường đã xấu đi rõ
rệt. Điều này không chỉ khiến người nuôi phải bỏ ra chi phí
lớn hơn để mua hóa chất xử lý, quản lý môi trường ao nuôi
và thuốc phòng trị bệnh cá, mà còn làm cho cả cộng đồng
cũng phải chịu nhiều hậu quả.
Muốn bền vững, cần nâng cao chất lượng
Chất lượng cá giống suy giảm là một thực trạng đáng lo ngại,
làm giảm hiệu quả nuôi một cách nghiêm trọng. Nguyên
nhân chính là do chất lượng đàn cá bố mẹ bị thoái hóa, lai
cận huyết, sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các cơ sở sản
xuất cá bột, cho cá đẻ ép, đẻ non và đẻ nhiều lần trong năm.
Chính vì thế, để cải thiện chất lượng cá tra giống, bên cạnh
việc kiểm soát, quản lý chặt chẽ chất lượng đầu vào thì việc
chuẩn hóa đàn cá bố mẹ cũng là điều cần thiết phải thực hiện
ngay.
Vừa qua, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2 (RIA 2) đã
chuyển giao 101.000 con cá tra bố mẹ hậu bị cho 9 tỉnh nuôi
cá tra ở ĐBSCL. Dự kiến, nguồn cá bố mẹ hậu bị này sẽ đáp
ứng được 60% nhu cầu cá tra giống của người nuôi tại các
tỉnh ĐBSCL.
Trong thời gian tới, mỗi năm RIA 2 sẽ tiếp tục chuyển giao
cho 9 tỉnh ĐBSCL khoảng 30.000 - 40.000 cá tra bố mẹ để
thay thế những con có chất lượng trứng, tinh trùng thấp
(trong 101.000 cá bố mẹ đã chuyển giao). Khoảng cuối năm
nay, đàn cá bố mẹ hậu bị sẽ bắt đầu sinh sản. Với đàn cá hậu
bị này, từ năm 2013, ĐBSCL sẽ cơ bản đảm bảo được con
giống cá tra đạt chất lượng cho người dân.
Tuy nhiên, về lâu dài, để nghề nuôi cá tra ở ĐBSCL phát
triển bền vững thì ngay từ bây giờ, bên cạnh công tác quy
hoạch vùng sản xuất cá tra thương phẩm, cần có quy hoạch
vùng sản xuất cá tra giống ở các địa phương để tránh tình
trạng phát triển tự phát. Đồng thời, Bộ NN&PTNT cần sớm
ban hành tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng cá tra bố mẹ, cá
tra giống, ban hành quy chế cho các trại sản xuất cá giống
Ngành nông nghiệp phải có những tác động bằng khoa học,
công nghệ để nâng cao chất lượng đàn cá bố mẹ; khuyến cáo,
hướng dẫn người sản xuất cá bột không cho cá bố mẹ đẻ
nhiều lần, tăng cường kiểm tra, kiểm soát lượng cá giống lưu
thông trên địa bàn