Tóm tắt
Chất lượng đào tạo đại học ngày càng được quan tâm khi nền giáo dục mở cửa và có nhiều cạnh tranh.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo trong cơ sở giáo dục đại học. Dưới giác độ của người
học, chất lượng đào tạo được quyết định bởi 4 nhân tố: chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy,
phương pháp đánh giá và các điều kiện hỗ trợ người học trong quá trình học tập tại trường.Bài báo này
trình bày phản hồi của người học về chất lượng đào tạo của khoa Kinh tế, Trường Đại học Sao Đỏ dựa
trên kết quả khảo sát 323 cựu sinh viên và sinh viên chính quy đang theo học tại khoa Kinh tế. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, chất lượng đào tạo của khoa Kinh tế được sinh viên đánh giá ở mức khá tốt và yêu
cầu cấp bách nhất là phải hiệu chỉnh lại chương trình đào tạo theo hướng gắn với thực tiễn và yêu cầu
trên thị trường lao động, cập nhật những thay đổi trong nước và quốc tế, đảm bảo cho sinh viên tốt nghiệp
có đủ năng lực làm việc trong môi trường hội nhập.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng mô hình SEM đánh giá sự phản hồi của người học về chất lượng đào tạo của khoa Kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
78 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (68) 2020
Ứng dụng mô hình SEM đánh giá sự phản hồi của người
học về chất lượng đào tạo của khoa Kinh tế
Application of SEM model assessing the training quality
of the Economic Faculty
Nguyễn Minh Tuấn, Trần Thị Hằng
Email: minhtuancnsd@gmail.com
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 4/3/2020
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 29/3/2020
Ngày chấp nhận đĕng: 30/3/2020
Tóm tắt
Chất lượng đào tạo đại học ngày càng được quan tâm khi nền giáo dục mở cửa và có nhiều cạnh tranh.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo trong cơ sở giáo dục đại học. Dưới giác độ của người
học, chất lượng đào tạo được quyết định bởi 4 nhân tố: chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy,
phương pháp đánh giá và các điều kiện hỗ trợ người học trong quá trình học tập tại trường.Bài báo này
trình bày phản hồi của người học về chất lượng đào tạo của khoa Kinh tế, Trường Đại học Sao Đỏ dựa
trên kết quả khảo sát 323 cựu sinh viên và sinh viên chính quy đang theo học tại khoa Kinh tế. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, chất lượng đào tạo của khoa Kinh tế được sinh viên đánh giá ở mức khá tốt và yêu
cầu cấp bách nhất là phải hiệu chỉnh lại chương trình đào tạo theo hướng gắn với thực tiễn và yêu cầu
trên thị trường lao động, cập nhật những thay đổi trong nước và quốc tế, đảm bảo cho sinh viên tốt nghiệp
có đủ nĕng lực làm việc trong môi trường hội nhập.
Từ khóa: Đào tạo; chất lượng; chất lượng đào tạo.
Abstract
The quality of university training is increasingly concerned when education is open and competitive. There
are many factors that affect the quality of higher education institutions. From the perspective of the learner,
the quality of training is determined by four factors: the curriculum, the teaching method, the evaluation
method and the conditions to support the learner during the school learning process. This paper presents
learners’ feedback on the training quality of the Faculty of Economics, Sao Do University based on the
survey of 323 alumni and regular students studying in the Faculty of Economics. The research results
show that the training quality of the Faculty of Economics is assessed by students to be quite good and the
most urgent requirement is to revise the training program in accordance with practice and requirements in
the labor market, update domestic and international changes, ensure that graduates have the capacity to
work in an integrated environment.
Keywords: Training; quality; education quality.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội nhập quốc tế đã tạo điều kiện cho Việt Nam
phát triển kinh tế xã hội, giao lưu học hỏi, tiếp thu
kiến thức mới và chuyển giao khoa học công nghệ,
chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau. Hòa chung xu thế,
việc quốc tế hóa hệ thống các trường đại học cũng
là một điều tất yếu, đây vừa là cơ hội, vừa là thách
thức và áp lực đối với các cơ sở giáo dục đại học
trong việc nâng cao chất lượng đào tạo.
Chất lượng đào tạo là mối quan tâm hàng đầu của
cơ sở đào tạo nói riêng và của xã hội nói chung.
Chất lượng đào tạo tốt sẽ tạo ra những sản phẩm
tốt cho xã hội, cho đất nước, ngược lại, sẽ gây ra
hậu quả lớn để lại cho cả thế hệ sau. Do vậy, có
thể nói, chất lượng đào tạo là điều kiện tồn tại và
phát triển của bất kỳ cơ sở đào tạo nào. Chất lượng
đào tạo phải được đánh giá bởi chính những khách
hàng đang sử dụng chứ không phải chỉ theo các
tiêu chuẩn kỹ thuật, số lượng hay các quy định.
Khi đào tạo là một loại hình dịch vụ điều này đồng
nghĩa với các cơ sở đào tạo trở thành các đơn vị
cung cấp dịch vụ. Đối tượng thụ hưởng dịch vụ chủ
yếu là sinh viên, vì họ là đối tượng trực tiếp của
quá trình đào tạo và cũng là sản phẩm chính nên
ý kiến phản hồi của sinh viên về sự hài lòng đối
với giảng viên, cơ sở vật chất, cũng như quy trình
và nội dung giảng dạy có một ý nghĩa nhất định,
Người phản biện: 1. PGS.TS. Lưu Ngọc Trịnh
2. TS. Nguyễn Thu Hương
NGÀNH KINH TẾ
79Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (68) 2020
giúp cho cơ sở đào tạo có những điều chỉnh hợp
lý nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sinh viên và
nhu cầu xã hội.
Để đánh giá chất lượng sau 10 nĕm đào tạo bậc
đại học của khoa Kinh tế, Trường Đại học Sao
Đỏ, nhóm nghiên cứu đã sử dụng mô hình SEM
(Structural Equation Modeling) để xem xét phản hồi
của cựu sinh viên và sinh viên các khóa đang theo
học tại trường về chương trình đào tạo của khoa,
chất lượng giảng dạy của giảng viên, và các dịch
vụ hỗ trợ của khoa Kinh tế giúp sinh viên những
lúc gặp khó khĕn trong suốt quá trình học tập tại
trường cũng như khi ra trường.
2. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CỦA KHOA KINH TẾ
QUA PHẢN HỒI CỦA NGƯỜI HỌC
2.1. Cơ sở lý thuyết và thang đo chất lượng
đào tạo
Chất lượng đào tạo luôn là vấn đề quan trọng nhất
của giáo dục đại học, và việc phấn đấu nâng cao
chất lượng đào tạo bao giờ cũng được xem là
nhiệm vụ quan trọng nhất của bất kỳ cơ sở đào tạo
đại học nào. Mặc dù có tầm quan trọng như vậy,
nhưng chất lượng vẫn là một khái niệm khó định
nghĩa, khó xác định, khó đo lường, và cách hiểu
của người này cũng khác với cách hiểu của người
kia. Dù đã có rất nhiều cuộc tranh luận xung quanh
vấn đề chất lượng tại các diễn đàn khác nhau, song
vẫn chưa có định nghĩa thống nhất và nhất quán.
Các nhà nghiên cứu hàn lâm trên thế giới đã đưa ra
những định nghĩa khác nhau về chất lượng đào tạo
đại học. Harvey và Green (1993) cho rằng, có thể
tập hợp thành 5 nhóm quan điểm về chất lượng như
sau: (1) Chất lượng là sự vượt trội, (2) Chất lượng
là sự hoàn hảo, (3) Chất lượng là phù hợp với mục
tiêu, (4) Chất lượng là giá trị đồng tiền và (5) Chất
lượng là sự chuyển đổi. Parri (2006) cho rằng, có
thể tập hợp thành các quan điểm về chất lượng đào
tạo đại học như sau: (1) Chất lượng là sự vượt trội,
xuất sắc; (2) Chất lượng là không có lỗi; (3) Chất
lượng là phù hợp với mục tiêu; (4) Chất lượng là sự
chuyển đổi, định hình lại; (5) Chất lượng là ngưỡng
tiêu chuẩn; (6) Chất lượng là sự nâng cao hay cải
tiến; (7) Chất lượng là giá trị đồng tiền [7].
UNESCO (1998) cho rằng, chất lượng đào tạo đại
học là khái niệm đa hướng, bao gồm tất cả các
chức nĕng và hoạt động như chương trình đào tạo,
chất lượng giảng dạy của giảng viên, nghiên cứu
và học bổng, đặc điểm sinh viên, nhân viên, cơ sở
vật chất, và môi trường học thuật [9].
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017) cho rằng, chất
lượng đào tạo đại học là sự đáp ứng mục tiêu do
cơ sở giáo dục đề ra, đảm bảo các yêu cầu về mục
tiêu giáo dục của Luật Giáo dục đại học, phù hợp
với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước.
Như vậy, chất lượng đào tạo đại học là một khái
niệm phức tạp và đa hướng và vẫn chưa có một
định nghĩa phù hợp duy nhất về chất lượng đào
tạo đại học. Trong nghiên cứu này, định nghĩa chất
lượng đào tạo đại học của UNESCO (1998) được
tác giả sử dụng vì nó liên quan đến cảm nhận của
sinh viên về chất lượng đào tạo [9].
2.2. Mô hình nghiên cứu
a) Tổng quan về mô hìnhSEM
Mô hình SEM là sự mở rộng của mô hình tuyến tính
tổng quát cho phép kiểm định một tập hợp phương
trình hồi quy cùng một lúc. SEM có thể cho một mô
hình phức hợp phù hợp với dữ liệu như các bộ dữ
liệu khảo sát trong dài hạn, phân tích nhân tố khẳng
định, các mô hình không chuẩn hóa,cơ sở dữ liệu
có cấu trúc sai số tự tương quan, dữ liệu với các
biến số không chuẩn (Non-Normality), hay dữ liệu
bị thiếu (Missing Data). Đặc biệt, SEM sử dụng để
ước lượng các mô hình đo lường (Measurement
Model) và mô hình cấu trúc (Structure Model) của
bài toán lý thuyết đa biến. Mô hình đo lường chỉ rõ
quan hệ giữa các biến tiềm ẩn (Latent Variables) và
các biến quan sát (Observed Variables) và thông
tin về thuộc tính đo lường của biến quan sát (độ
tin cậy, độ giá trị). Mô hình SEM gồm hai mô hình
có liên quan với nhau là mô hình đo lường và mô
hình cấu trúc. Mô hình đo lường (còn gọi là mô hình
nhân tố, mô hình ngoài) diễn tả cách các biến quan
sát thể hiện và giải thích các biến tiềm ẩn, tức là
diễn tả cấu trúc nhân tố (biến tiềm ẩn), đồng thời
diễn tả các đặc tính đo lường (độ tin cậy, độ giá trị)
của các biến quan sát. Các biến tiềm ẩn được nối
kết bằng các quan hệ dạng hồi quy chuẩn hóa, tức
là ước lượng các giá trị cho các hệ số hồi quy. Mô
hình cấu trúc xác định các liên kết (quan hệ nhân
quả) giữa các biến tiềm ẩn bằng mũi tên nối kết, và
gán cho chúng các phương sai giải thích và chưa
giải thích, tạo thành cấu trúc nhân quả cơ bản. Biến
tiềm ẩn được ước lượng bằng hồi quy bội của các
biến quan sát [8].
b) Mô hình đánh giá sự phản hồi của người học
về chất lượng đào tạo
Dưới góc độ là người thụ hưởng trực tiếp quá trình
đào tạo, Nguyễn Thành Long (2006) cho rằng thành
phần chất lượng đào tạo bao gồm: (1) Phương
tiện hữu hình; (2) Chi phí/thời gian; (3) Danh tiếng
trường đại học; (4) Chương trình đào tạo; (5) Cơ
hội nghề nghiệp; (6) Địa điểm; (7) Khác: truyền
miệng; gia đình và đồng nghiệp/bạn bè [2]. Dưới
góc độ là một giảng viên giảng dạy trực tiếp, Hoàng
Thu Trang và cộng sự (2008) cho rằng chất lượng
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
80 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (68) 2020
đào tạo phụ thuộc vào giảng viên (Kỹ nĕng giảng
dạy của giảng viên; cách thức tổ chức môn học;
tương tác giữa giảng viên và sinh viên) [4].
Đồng quan điểm với Long (2006), Hoàng và cộng
sự (2018) cho rằng, chất lượng đào tạo phụ thuộc
vào các thành phần: (1) Chương trình đào tạo;
(2) Phương pháp giảng dạy; (3) Phương pháp
đánh giá; (3) Cơ sở vật chất hỗ trợ học tập và (4)
Quy trình phi học thuật [1].
Theo bộ tiêu chí của AUN-QA, chất lượng được
hiểu là mức độ hài lòng của những người liên quan
đến quá trình giáo dục, bao gồm các giảng viên,
sinh viên, doanh nghiệp, chính phủ, và các đối
tượng liên quan khác. Tuy nhiên, nghiên cứu này
có mục đích tìm hiểu những đánh giá của cựu sinh
viên các khóa đã và đang theo học tại trường về
chương trình đào tạo của khoa Kinh tế, chất lượng
giảng dạy của giảng viên, và các dịch vụ hỗ trợ
của khoa Kinh tế giúp sinh viên những lúc gặp khó
khĕn trong suốt quá trình học tập tại trường cũng
như khi ra trường. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng
mô hình nghiên cứu của Hoàng và cộng sự (2018)
kết hợp với các thang đo của AUN-QA trong các
thành phần ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo với
khung phân tích 4 yếu tố phổ biến tác động đến
chất lượng đào tạo của khoa Kinh tế [6] (hình 1).
Để lấy ý kiến sinh viên, bảng câu hỏi được thiết kế
sẵn theo 25 biến chia làm 4 nhóm (chương trình
gồm 5 biến, giảng dạy gồm 11 biến, đánh giá gồm 4
biến và hỗ trợ gồm 5 biến). Thang đo được sử dụng
trong nghiên cứu này là thang đo Likert 5 mức từ 1
đến 5 tương ứng với ý kiến rất không hài lòng đến
rất hài lòng. Để nhận diện và đo lường ảnh hưởng
của các nhân tố đến sự hài lòng của sinh viên về
chất lượng đào tạo, phương pháp phân tích thống
kê mô tả, Cronback Alpha, CFA, EFA, ANOVA và
SEM được sử dụng.
Hình 1. Mô hình lý thuyết đánh giá sự phản hồi của người học về chất lượng đào tạo
(gồm nhóm 05 biến độc lập 25 tiêu chí và 04 biến kiểm soát)
Hình 2. Mô hình kết quả phân tích đánh giá sự phản hồi của người học về chất lượng đào tạo
NGÀNH KINH TẾ
81Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (68) 2020
2.3. Kết quả phân tích
Dựa trên số lượng sinh viên đại học từ khóa 01 đến
khóa 10 của toàn khoa là 1.040 sinh viên, nhóm tác
giả lựa chọn điều tra toàn bộ sinh viên của khoa ở
các khóa bậc đại học bằng hình thức điều tra trực
tuyến. Kết quả có 347 phiếu hỏi được thu thập (tỷ
lệ phản hồi là 33,37%). Trong quá trình sàng lọc, số
phiếu hợp lệ có đầy đủ và chính xác các nội dung
khảo sát là 323 phiếu (đạt tỷ lệ 93,08%) với cơ cấu
về giới tính, độ tuổi, ngành học, khóa học được mô
tả tại bảng 1.
Bảng 1. Thống kê mẫu khảo sát
Chỉ tiêu Tần số Phần trăm Phần trăm hợp lệ Phần trăm tích lũy
Giới tính
Nữ 188 58,2 58,2 58,2
Nam 135 41,8 41,8 100,0
Tổng cộng 323 100,0 100,0
Độ tuổi
Dưới 25 192 59,4 59.4 59,4
Từ 25 đến 34 tuổi 128 39,7 39.7 99,1
Từ 35 trở lên 3 0,9 0,9 100,0
Tổng cộng 323 100,0 100,0
Ngành học
Quản trị 194 60,1 60,1 60,1
Kế toán 129 39,9 39,9 100,0
Tổng cộng 323 100,0 100,0
Khóa học
DK01 25 7,7 7,7 7,7
DK02 22 6,8 6,8 14,6
DK03 39 12,1 12,1 26,6
DK04 46 14,2 14,2 40,9
DK05 38 11,8 11,8 52,6
DK06 32 9,9 9,9 62,5
DK07 35 10,8 10,8 73,4
DK08 27 8,4 8,4 81,7
DK09 23 7,1 7,1 88,9
Dk10 36 11,1 11,1 100,0
Tổng cộng 323 100,0 100,0
Với tỷ lệ phản hồi đạt trên 33,37%, cơ cấu phiếu
thu được có tỷ lệ giới tính không đồng đều (nữ
58,2%, nam 41,8%). Tỷ lệ này phù hợp với cơ
cấu giới tính của sinh viên trong khoa. Số phiếu
trả lời được phủ tương đối đều ở các khóa học,
phù hợp với cơ cấu độ tuổi. Theo Tabachnick BG,
Fidell LS (2013), Using Multivariate Statistics, 6th
ed. Boston: Pearson Education, tỷ lệ mẫu n ≥ 8 m
+ 50 với m là số biến độc lập. Vì vậy, có thể khẳng
định với 323 phiếu trả lời có thể đại diện về giới
tính, độ tuổi, khóa học, ngành học chung cho 1.040
sinh viên đã và đang theo học tại Khoa Kinh tế đến
thời điểm hiện nay.
a. Kiểm định thang đo
Thang đo được đánh giá độ tin cậy thông qua hệ
số Cronbach’s Alpha. Hệ số Cronbach’s Alpha
được sử dụng để loại các biến “rác”, các biến
có hệ số tương quan biến - tổng (Corrected item
totalcorrelation) nhỏ hơn 0,3 sẽ bị loại và thang
đo sẽ được chọn khi hệ số Cronbach’s Alpha lớn
hơn 0,5.
Kết quả kiểm định độ tin cậy của thang đo chương
trình, giảng dạy, đánh giá và hỗ trợ cho kết quả tốt,
khi các hệ số Cronbach’s-Alpha của các thang đo
đều đạt mức cao. Trong đó, thang đo có mức tin
cậy cao nhất là giảng dạy với hệ số 0,914. Ngoài
ra, các biến quan sát khác đều có hệ số tương quan
biến - tổng lớn hơn mức 0,501. Hệ số Cronbach’s
alpha là 0,910 cho thấy các biến quan sát có sự
biểu diễn tốt đối với các thang đo và có mối quan
hệ mật thiết với nhau, chứng tỏ thang đo có ý nghĩa
và đáng tin cậy trong việc đo lường mức độ hài
lòng của sinh viên đối với chất lượng đào tạo tại
khoa Kinh tế.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
82 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (68) 2020
b. Phân tích nhân tố EFA, CFA
Kết quả phân tích nhân tố cho thấy, trị số KMO có
giá trị bằng 0,869 (0,5 < = KMO = 0,869 < 1) và
kiểm định Bartlett là 4720,115 với hệ số sig. = 0,000
< 0,05 chứng tỏ các biến trong tổng thể có mối liên
quan với nhau. Xem xét tới hệ số tải nhân tố trong
bảng hệ số nhân tố sau khi xoay, biến các đề nghị
của sinh viên luôn được giảng viên đáp ứng nhanh
chóng có hệ số nhân tố < 0,5 nên ta loại biến này,
25 biến còn lại đều có hệ s ố tải nhân tố lớn hơn 0,5,
cho thấy mức độ phù hợp của dữ liệu đã được đảm
bảo và giá trị Cumulative = 66,185% cho biết các
nhân tố đầu giải thích được 66,185% độ biến thiên
của dữ liệu và hệ số tải từ 0,507 đến 0,879). Sau
khi loại bỏ các biến có giá trị nhỏ hơn 0,5; các nhóm
biến còn lại được chia như sau: nhóm chương trình
gồm 3 biến (từ CT_1 đến CT_3), nhóm giảng dạy
gồm 6 biến (GD_3 đến GD_8), nhóm đánh giá gồm
4 biến (DG_1, DG_2, GD_10, GD_11), nhóm hỗ trợ
gồm 2 biến (HT_4, HT_5).
Sau khi kiểm định bằng EFA các thành phần chất
lượng dịch vụ có sự thay đổi so với ban đầu, thang
đo còn lại 15 biến quan sát được chia thành 4
nhóm. Phân tích CFA để khẳng định lại một lần nữa
kết quả của EFA là có đáng tin cậy hay không.Kết
quả CFA lần hai cho thấy, mô hình có 84 bậc tự
do, chi-square = 575,644 (p-value = 0,000 <0,05),
chi-square/df = 6,853 ( 0,8),
CFI = 0,847 (> 0,8), RMSEA = 0,135 (< 0,50), tất
cả các trọng số đã chuẩn hóa đều cao > 0,5 và có ý
nghĩa thống kê (P-value = 0,000 < 0,05), do đó, mô
hình đạt được giá trị hội tụ; hệ số tương quan của
các biến quan sát đều nhỏ hơn 1, nên đạt tính đơn
nguyên; hệ số tương quan của từng cặp khác biệt
so với 1 ở độ tin cậy 95% và P-value đều < 0,05.
Điều đó chứng tỏ mô hình của chúng ta phù hợp
với dữ liệu.
c. Phân tích sự khác biệt về đánh giá chất lượng
đào tạo
Phương pháp phân tích được sử dụng trong nội
dung này là phương pháp phân tích phương sai
ANOVA. Trong đó, kiểm định sâu POST-HOC sử
dụng phương pháp Turkey để xác định rõ sự khác
biệt giữa các nhóm này. Kết quả kiểm định sự khác
biệt về phương sai giữa các nhóm đối tượng về
chất lượng đào tạo hệ số kiểm định Levene ở mức
lớn hơn 0,05, do đó phương sai giữa các nhóm là
bằng nhau. Kiểm định ANOVA được thực hiện cho
thấy, giá trị Sig đối với sự hài lòng và sự tuân thủ
đều có mức khá cao, lần lượt là 0,725, điều này cho
thấy, sự khác biệt giữa các nhóm đối tượng về chất
lượng đào tạo là không có ý nghĩa thống kê cao.
Như vậy, có thể thấy, giữa nam và nữ, không có
sự khác biệt rõ ràng trong việc đánh giá chất lượng
đào tạo. Tuy nhiên, mức điểm trung bình của nữ
cao hơn so với nam ở đánh giá chất lượng đào tạo.
Kết quả kiểm định sự khác biệt về phương sai giữa
các sinh viên ở các độ tuổi, khóa học, ngành học
khác nhau về đánh giá chất lượng đào tạo có hệ
số kiểm định Levene ở mức lớn hơn 0,05, do đó,
phương sai giữa các nhóm là bằng nhau. Kiểm
định ANOVA cho thấy, giá trị Sig đối với chất lượng
đào tạo có mức khá cao từ 0,136 đến 0,975, điều
này cho thấy, sự khác biệt giữa các sinh viên ở các
độ tuổi, khóa học, ngành học khác nhau không có
ý nghĩa thống kê cao. Như vậy, có thể thấy, giữa
các sinh viên ở các độ tuổi khác nhau, không có sự
khác biệt rõ ràng khi đánh giá chất lượng đào tạo.
Hình 3. Mô hình CFA đánh giá sự phản hồi của
người học về chất lượng đào tạo đã chuẩn hóa
d. Mô hình SEM
Kết quả phân tích SEM sau khi loại bỏ các biến có
trọng số < 0,5 cho thấy, các dữ liệu khảo sát phù
hợp với mô hình, các biến độc lập có chiều thuận
với sự hài lòng về chất lượng đào tạo của Khoa
Kinh tế. Các biến kiểm soát không có ảnh hưởng
nhiều đến chất lượng đào tạo của khoa. Với mô
hình SEM sau khi đã chuẩn hóa, ta thấy mô hình
có 220 bậc tự do, chi-square = 2620,395 (p-value
= 0,001 < 0,05), chi-square/df = 11,911 (< 2), GFI
= 0,659 (> 0,5), TLI = 0,611(> 0,6), CFI = 0,661
(> 0,5), RMSEA = 0,184 (< 0,50), chứng tỏ mô hình
SEM phù hợp để đánh giá chất lượng đào tạo.
NGÀNH KINH TẾ
83Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (68) 2020
Mặt khác, kết quả phân tích hồi quy đa biến cho
thấy sinh viên trong khoa đánh giá cao về tầm quan
trọng về chất lượng đào tạo thông qua các yếu tố
ảnh hưởng: Chương trình - Giảng dạy - Đánh giá
- Hỗ trợ.
Hình 4. Mô hình SEM đánh giá sự phản hồi của người học về chất lượng đào tạo đã chuẩn hóa
Bảng 2. Kết quả hồi quy đa biến
Tóm tắt mô hìnhb
Mô hình R R bình phương R bình phương hiệu chỉnh
Sai số chuẩn
của ước lượng
Giá trị
Durbin-Watson
1 0,716a 0,513 0,502 0,32236 1,777
a. Dự báo: (Hằng số), chương trình, giảng dạy, đánh giá, hỗ trợ.
b. Biến phụ thuộc: Chất lượng.
ANOVAa
Mô hình Tổng các bình phương Giá trị df Trung bình bình phương F Sig.
1
Hồi quy 20,662 4 5,166 49,709 0,000b
Phần dư 19,640 189 0,104
Tổng cộng 40,302 193
a. Biến phụ thuộc: Kết quả.
b. Dự báo: (Hằng số), chương trình, giảng dạy, đánh giá, hỗ trợ.
Hồi quy đa biến:
Nhân tố
Hệ số chưa
chuẩn hóa
Hệ số
chuẩn hóa t Sig
Thống kê
cộng tuyến
B Sai số chuẩn Beta Độ chấp nhận VIF
Hằng số 0,990 0,223 4,434
Chương trình 0,337 0,051 0,092 1,578 0,000 0,754 1,326
Giảng dạy 0,162 0,066 0,194 2,445 0,000 0,411 2,430
Đánh giá 0,123 0,073 0,134 1,690 0,000 0,409 2,447
Hỗ trợ 0,080 0,058 0,422 5,804 0,000 0,488 2,049
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
84 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (68) 2020
Các hệ số của hàm hồi quy đa biến cũng khác định
tầm quan trọng của