1. Mở đầu
Học sinh có khó khăn về viết được xem là một nhóm học sinh khuyết tật với các đặc điểm
như:Viết những chữ rất khó đọc và không theo kịp tốc độ viết chung, độ trôi chảy, độ chuẩn xác
của chữ kém hơn so với các học sinh cùng độ tuổi, đặc biệt là qua kĩ năng chép (transcription skill)
[1,4]. Bên cạnh việc mắc những khó khăn điển hình về viết một cách nguyên phát, nhiều trẻ có
KKVV một cách thứ phát do có khó khăn về đọc [8] và khi trẻ càng học lên cao khả năng viết
càng kém dần đi [10].
Tại Việt Nam hiện nay chưa có nhiều thông tin về số lượng, đặc điểm HS KKVV nói riêng,
KKVH nói chung; thiếu các công cụ đánh giá có tính chất tiêu chuẩn để phát hiện KKVV, từ đó
thiếu những định hướng trong hỗ trợ, hỗ trợ kém kịp thời và thiếu những biện pháp hỗ trợ cụ thể
phù hợp với nhu cầu giáo dục đặc biệt của HS. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng tồn tại và đặc
điểm của những HS có KKVV là cần thiết góp phần định hướng cho những biện pháp hỗ trợ trong
dạy viết nhằm nâng cao chất lượng chữ viết cho nhóm HS này.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 238 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vài nét về thực trạng học sinh khó khăn về viết trong trường tiểu học hiện nay thông qua con số định lượng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0041
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 2, pp. 148-154
This paper is available online at
VÀI NÉT VỀ THỰC TRẠNG HỌC SINH KHÓ KHĂN
VỀ VIẾT TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC HIỆN NAY
THÔNG QUA CON SỐ ĐỊNH LƯỢNG
Nguyễn Thị Cẩm Hường
Khoa Giáo dục Đặc biệt, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Bài viết tập trung mô tả thực trạng học sinh (HS) khó khăn về viết (KKVV) từ
khối 1 đến khối 5 trong các trường tiểu học hiện nay trong tổng số gần 3000 HS tham gia
nghiên cứu. Các số liệu được phân tích trên những khía cạnh khối lớp, giới tính, giai đoạn
học tập, kiểu KKVV. Kết quả cho thấy: tỉ lệ HS KKVV trong nghiên cứu này là 2,14%
(3,30% ở nam, 0,87% ở nữ); số HS KKVV chiếm 55,86% tổng số HS khó khăn về học
(KKVH); HS KKVV đầu cấp tiểu học ít hơn cuối cấp nhưng sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê; đa số HS KKVV có KK trong các kĩ năng học đường khác, trong đó nhóm
HS KKVV kèm theo đọc chiếm tỉ lệ cao nhất.
Từ khóa: Khó khăn về viết, khó khăn về học, thực trạng.
1. Mở đầu
Học sinh có khó khăn về viết được xem là một nhóm học sinh khuyết tật với các đặc điểm
như:Viết những chữ rất khó đọc và không theo kịp tốc độ viết chung, độ trôi chảy, độ chuẩn xác
của chữ kém hơn so với các học sinh cùng độ tuổi, đặc biệt là qua kĩ năng chép (transcription skill)
[1,4]. Bên cạnh việc mắc những khó khăn điển hình về viết một cách nguyên phát, nhiều trẻ có
KKVV một cách thứ phát do có khó khăn về đọc [8] và khi trẻ càng học lên cao khả năng viết
càng kém dần đi [10].
Tại Việt Nam hiện nay chưa có nhiều thông tin về số lượng, đặc điểm HS KKVV nói riêng,
KKVH nói chung; thiếu các công cụ đánh giá có tính chất tiêu chuẩn để phát hiện KKVV, từ đó
thiếu những định hướng trong hỗ trợ, hỗ trợ kém kịp thời và thiếu những biện pháp hỗ trợ cụ thể
phù hợp với nhu cầu giáo dục đặc biệt của HS. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng tồn tại và đặc
điểm của những HS có KKVV là cần thiết góp phần định hướng cho những biện pháp hỗ trợ trong
dạy viết nhằm nâng cao chất lượng chữ viết cho nhóm HS này.
Ngày nhận bài: 8/8/2014. Ngày nhận đăng: 1/3/2015.
Liên hệ: Nguyễn Thị Cẩm Hường, e-mail: nch19381@yahoo.com
148
Vài nét về thực trạng học sinh khó khăn về viết trong trường tiểu học hiện nay...
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Mục đích và phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm xác định số lượng, tỉ lệ HS có KKVV ở cấp tiểu học, đặc điểm KKVV
trong mối quan hệ với các kĩ năng học đường khác từ đó đề xuất các định hướng hỗ trợ trong dạy
học nhằm nâng cao chất lượng chữ viết cho HS có KKVV.
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu
Khách thể khảo sát
Tổng số 2893 HS từ lớp 1 đến lớp 5 ở 4
trường tiểu học (2 trường tiểu học ở Nghệ
An, 2 trường tiểu học ở Hà Nội), trong đó có
1513 HS nam (chiếm 52,3%) và 1380 HS nữ
(47,7%) đã tham gia nghiên cứu. Số liệu cụ
thể về HS tham gia khảo sát được trình bày
trong Bảng 1.
Bảng 1. HS tham gia khảo sát
Khối lớp Tổng Nam Nữ
Khối 1 (17 lớp) 641 339 302
Khối 2 (18 lớp) 585 292 293
Khối 3 (18 lớp) 643 353 290
Khối 4 (15 lớp) 471 243 228
Khối 5 (17 lớp) 553 286 267
Tổng 2893 1513 1380
Phương pháp và công cụ phát hiện KKVV
Nghiên cứu sử dụng Bảng hỏi thông tin về các HS có biểu hiện KTHT được xây dựng trên
cơ sở phân tích và điều chỉnh các nguồn tham khảo đang được sử dụng ở Nhật Bản và Mỹ. Bảng
hỏi gồm phần thông tin cơ bản về HS và phần thông tin về các khó khăn đặc thù trên 6 lĩnh vực
học tập (nghe, nói, đọc, viết, tính toán và suy luận). Mỗi lĩnh vực gồm 5 khó khăn đặc thù được
đánh giá theo 4 mức độ từ không xuất hiện tới xuất hiện thường xuyên. Các HS được xác định là
có KKVV khi tổng điểm ở lĩnh vực viết (nhưng không hạn chế lĩnh vực khác) đạt từ 12 điểm trở
lên; những hỗ trợ thông thường của GV không cải thiện được những khó khăn này; bản thân HS
đó không có kết quả chẩn đoán khuyết tật, không do ảnh hưởng của yếu tố tâm lí, môi trường bên
ngoài, yếu tố văn hóa.
Phương pháp đo đạc, xử lí số liệu
Các số liệu thu được được tổng hợp và xử lí trên phần mềm Excel và phần mềm thống kê
JavaScript-Star bản 5.5.0j (phiên bản tiếng Nhật).
2.2. Kết quả nghiên cứu và bàn luận
2.2.1. Số lượng và tỉ lệ HS tiểu học có KKVV theo khối lớp và giới tính
Bảng 2: Số lượng và tỉ lệ HS KKVV
xét theo khối lớp và giới tính
Tổng HS nam HS nữ
SL % SL % SL %
K1 12 1,87 10 2,95 2 0,66
K2 4 0,68 3 1,03 1 0,34
K3 19 2,95 16 4,53 3 1,03
K4 14 2,97 12 4,94 2 0,88
K5 13 2,35 9 3,15 4 1,50
Tổng 62 2,14 50 3,30 12 0.87
Biểu đồ 1. Tỉ lệ HS KKVV
xét theo khối lớp và giới tính
149
Nguyễn Thị Cẩm Hường
Kết quả nghiên cứu này cho thấy, tỉ lệ HS KKVV đang học ở cấp tiểu học là 2,14%. Nếu
trung bình mỗi lớp có 35 HS (theo yêu cầu chuẩn số lượng HS/lớp của Bộ Giáo dục và Đào tạo)
thì có khoảng 1 em có KKVV. Tỉ lệ này khá tương đồng với tỉ lệ ở Nhật Bản (2.5%) [5].
Kết quả kiểm định sự khác biệt về số lượng HS có KKVV từ khối lớp 1 đến khối lớp 5 theo
PP x- bình phương trên bản Grid cho thấy: Trong số 5 khối lớp, các HS lớp 2 có KKVV chiếm tỉ
lệ ít nhất một cách có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95 % (x2(4) = 10,580 , p < 0,05).
Xét về sự phân bố theo giới tính, tỉ lệ xuất hiện HS nam có KKVV là 3,30%, trong khi đó,
tỉ lệ xuất hiện ở nữ là 0,87%, số HS nam KKVV nhiều hơn số HS nữ với tỉ lệ nam:nữ là 2,46:1,
nói cách khác, cứ 2,5 HS nam có KKVV thì có 1 HS nữ có KKVV. Tỉ lệ HS nam so với HS nữ có
KKVV không đồng đều nhau. Cụ thể tỉ lệ này ở các khối lớp là:
K1: 2,83:1 K2: 2,00:1 K3: 2,86:1 K4: 3,39:1 K5: 1,57:1
Tìm hiểu kĩ hơn về sự thay đổi số lượng HS nam và HS nữ có KKVV theo thời gian, chúng
tôi dùng phương pháp x- bình phương trên bản Grid để kiểm định sự khác biệt về số lượng HS có
KKVV theo giới tính theo khối lớp. Kết quả cho thấy: Trong số 5 khối lớp, các HS nam lớp 2 có
KKVV chiếm tỉ lệ ít nhất một cách có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95 % (x2(4) = 8,093, 0.05
< p < 0,10). Trong khi đó, sự khác biệt về số lượng HS nữ có KKVV ở các khối lớp không rõ rệt
(x2(4) = 2,371, ns). Nói cách khác, các HS nam ít gặp KKVV hơn cả khi học lớp 2, nhưng tình
hình không xảy ra đối với HS nữ. Điều này cũng cho thấy, sự biến động về HS nam có KKVV xảy
ra rõ rệt hơn ở HS nữ.
Việc HS nam có tốc độ viết tương đối đồng đều so với HS nữ nhưng mắc nhiều lỗi sai hơn
[6, 7] và gặp nhiều KKVV hơn HS nữ cho thấy HS nam có nhiều vấn đề cần lưu ý hơn so với HS
nữ trong việc phát triển kĩ năng viết. Kết quả này tương đồng với nhiều nghiên cứu trên thế giới
như ở Anh [3], Nhật [5], Mỹ [9] về việc HS nữ có năng lực ngôn ngữ tốt hơn HS nam do sự hoạt
động tích cực hơn của các vùng hồi trán dưới, hồi thái dương ở cả hai bên cầu não và hồi hình thoi
bán cầu não trái [2].
2.2.2. Số lượng và tỉ lệ HS KKVV theo từng giai đoạn học tập ở tiểu học
Số liệu về HS KKVV xét theo giai đoạn đầu và cuối cấp tiểu học (bảng 3) cho thấy, tỉ lệ
HS KKVV tăng lên khi chuyển sang giai đoạn cuối cấp (tăng từ 1,87% ở các lớp đầu cấp (lớp 1,
2, 3) lên 2,64% ở các lớp 4-5 cuối cấp) nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (x2(1)=
1.760, ns). Tỉ lệ HS KKVV là nam cũng tăng mạnh hơn ở HS nữ: HS nam KKVV tăng từ 2,95%
ở đầu cấp thành 3,97% (tăng lên 1/3) ở cuối cấp, ở HS nữ, tăng từ 0,68% lên 1,21%. Càng về cuối
cấp sự gia tăng về yêu cầu và độ khó của kĩ năng viết làm KKVV càng bộc lộ rõ nét nhưng sự gia
tăng số HS KKVV không phải do giai đoạn học tập, hay độ tuổi của HS quyết định. Điều này hoàn
toàn thống nhất với các ý kiến của chuyên gia cho rằng KKVV là vốn có ở HS, do năng lực nhận
thức đặc thù gây ra, nó không hề mất đi và sẽ thể hiện rõ ở những giai đoạn sau, nó không phải là
những khó khăn gặp phải trong kĩ năng viết đơn thuần do môi trường học tập gây ra [10].
Bảng 3. Số lượng và tỉ lệ HS KKVV xét theo giai đoạn đầu và cuối cấp tiểu học
Giai đoạn
HS KKVV HS nam KKVV HS nữ KKVV
SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ %
Đầu tiểu học (lớp 1,2,3) 35 1,87 29 2,95 6 0,68
Cuối tiểu học (lớp 4, 5) 27 2,64 21 3,97 6 1,21
Tổng 62 2,14 50 3,30 12 0,87
2.2.3. Tỉ lệ HS KKVV so với tổng số HS khó khăn về học
Các số liệu về tỉ lệ HS khó khăn về học KKVV so với tổng số các HS có KKVH từ khối
1 đến khối 5 trong bảng 4 cho thấy, trong tổng số các HS KKVH, có tới 55,86% là các HS có
KKVV, bao gồm HS chỉ có KKVV và HS có KKVV kèm theo cả KK ở các lĩnh vực khác.
150
Vài nét về thực trạng học sinh khó khăn về viết trong trường tiểu học hiện nay...
Bảng 4. Số lượng và tỉ lệ HS KKVV trong tổng số HS KKVH
Tổng HS KKVV nam HS nữ KKVV
KKVV/KKVH Tỉ lệ % KKVV/KKVH Tỉ lệ % KKVV/KKVH Tỉ lệ %
K1 12/16 75,00 10/13 76,92 2/3 66,67
K2 4/16 25,00 3/10 30,00 1/6 16,67
K3 19/29 65,52 16/21 76,19 3/8 37,50
K4 14/26 53,85 12/20 60,00 2/6 33,33
K5 13/24 54,17 9/17 52,94 4/7 57,14
Tổng 62/111 55,86 50/81 61,73 12/30 40,0
Xét trong số các nam HS KKVH, tỉ lệ nam HS có KKVV còn cao hơn, chiếm tới 61%. Đặc
biệt, ở khối 1, số HS KKVV chiếm tới 3/4 tổng số HS KKVH. Sau đó tỉ lệ này có xu hướng giảm
đi ở các khối lớp khác. Sự biến động này cho thấy, một mặt các KKVV của HS tiểu học ngày càng
hiển thị rõ nét, song đồng thời, những KK trong lĩnh vực khác cũng ngày càng xuất hiện nhiều hơn
(lĩnh vực tính toán, suy luận) và chiếm tỉ lệ phần trăm lớn hơn. Những số liệu này cho thấy, cần
phải quan tâm hơn nữa tới việc phát triển và hỗ trợ phát triển kĩ năng viết cho HS.
2.2.4. Số lượng và tỉ lệ xuất hiện HS KKVV dạng đơn lẻ và dạng kết hợp
Số liệu về HS chỉ có KKVV (KKVV đơn lẻ, KKVV kiểu A) và số HS KKVV dạng kết hợp
(KKVV kèm theo KK ở lĩnh vực khác) được thể hiện rõ ở Bảng 5.1. Kết quả cho thấy chỉ có 01
HS thuộc kiểu A, tức là chỉ có 01 HS có KKVV dạng đơn lẻ, số còn lại là các HS có KKVV dạng
kết hợp.
Bảng 5.1: Số lượng HS KKVV dạng đơn lẻ dạng kết hợp
Khối
lớp
KKVV
đơn lẻ
KKVV kết hợp (Kiểu A:Chỉ có KKVV;
V+Đ: KKVV kèm theo
KKVĐ, V+Ng: KKVV kèm
theo KK về nghe, V+N:
KKVV kèm theo KK về nói,
V+TT: KKVV kèm theo KK
về tính toán, V+SL: KKVV
kèm theo KK về suy luận)
V+Đ V+Ng V+N V+TT V+SL
1 0 9 5 10 9 6
2 0 2 1 1 1 2
3 0 16 8 13 16 16
4 1 8 3 10 10 13
5 0 9 3 7 11 13
Tổng 1 44 20 41 47 50
Để biết được sự khác biệt về số lượng HS KKVV dạng đơn lẻ so với số lượng HS KKVV
dạng kết hợp, nghiên cứu dùng phương pháp kiểm định x- bình phương trên bản Grid. Kết quả cho
thấy: với độ tin cậy là 99% (x2(5)= 54,941, p<0,01), số HS có KKVV dạng đơn lẻ là ít nhất, số
HS có KKVV kèm theo KK về nghe chiếm tỉ lệ ít nhất trong tổng số các HS có KKVV dạng kết
hợp. Việc đơn thuần chỉ mang 1 KKVV là trường hợp rất hiếm có, đa số các em có KKVV dạng
kết hợp. Không thể biết KK nào là nguyên nhân-hệ quả của KK nào nhưng qua kết quả này ta có
thể thấy sự liên hệ, ảnh hưởng giữa các kĩ năng học đường với nhau.
Khi nhóm 6 kĩ năng học đường cơ bản theo tiêu chí: Kĩ năng nghe và nói thuộc vào nhóm
kĩ năng liên quan đến ngôn ngữ nói, kĩ năng đọc và viết thuộc nhóm kĩ năng liên quan đến ngôn
ngữ viết, các kĩ năng tính toán, suy luận có liên quan đến năng lực toán số, có thể phân loại các
kiểu KKVV dạng kết hợp như sau: Kiểu B: KKVV kết hợp với KKVĐ (gọi tắt là KKVĐ-V); Kiểu
C: KKVV kết hợp khó khăn liên quan ngôn ngữ nói; Kiểu D: KKVV kết hợp với KK trong kĩ năng
toán số.
151
Nguyễn Thị Cẩm Hường
Số liệu về HS KKVV kiểu B, C và D so với kiểu A được thể hiện trong bảng 5.2. Kết quả
kiểm định tổng số số lượng HS KKVV thuộc các kiểu khác nhau theo phương pháp x- bình phương
trên bản Grid cho thấy, số HS KKVV kiểu B chiếm tỉ lệ cao nhất (1,52%), tiếp đó là HS KKVV
kiểu D với độ tin cậy là 99% (x2(2) = 10,750, p < 0,01 ). Điều đó có nghĩa là trong nghiên cứu
này, số HS có KKVV kèm theo KK về đọc chiếm tỉ lệ cao nhất trong số các HS KKVV dạng kết
hợp và khá trùng hợp với thực trạng ở các nước trên thế giới [1, 10].
Bảng 5.2. HS KKVV kiểu A, kiểu B, kiểu C
và kiểu D theo các khối
Khối
Đơn lẻ Các kiểu kết hợp
Kiểu A Kiểu B Kiểu C Kiểu D
SL TL* SL TL SL TL SL TL
K1 0 0 9 1,40 4 0,62 4 0,62
K2 0 0 2 0,34 1 0,17 1 0,17
K3 0 0 16 2,49 8 1,24 15 2,33
K4 1 0,21 8 1,70 3 0.64 10 2,12
K5 0 0 9 1,63 3 0,54 11 1,99
Tổng 1 0,03 44 1,2 19 0,66 41 1,42
Biểu đồ 2. Tỉ lệ HS KKVV
thuộc các kiểu A, B, C, D
Kết quả kiểm định sự khác biệt về số lượng HS KKVV kiểu B, C và kiểu D ở các khối lớp
cho thấy: HS KKVV kiểu B và D ở khối 3 nhiều hơn ở khối 2 (kiểu B: x2(4) = 11.227, p<.05; kiểu
D: x2(4) =15.463a, p<.01) với độ tin cậy là 99%, trong khi đó, khác biệt vè số lượng HS KKVV
kiểu C giữa các khối lớp là không đáng kể. So với giai đoạn đầu cấp tiểu học, ở giai đoạn cuối cấp
có sự gia tăng về số lượng và tỉ lệ HS KKVV kiểu B (KKĐV) và kiểu D (KKVV kèm theo KK về
toán số), tình hình ngược lại với kiểu C (KKVV kèm theo KKNN nói) (xem bảng 6). Tựu chung
lại, khi chuyển từ giai đoạn lớp 2 lên lớp 3 có một sự nhảy vọt về tỉ lệ HS KKVV kiểu B và kiểu
D, tỉ lệ này giảm dần ở các lớp cuối cấp nhưng vẫn cao hơn so với đầu cấp. Sự gia tăng số HS kiểu
D nhiều hơn so với kiểu B khi chuyển qua các giai đoạn học tập khác nhau cho thấy những điểm
khác biệt trong sự diễn tiến của những kiểu KKVV theo thời gian học tập.
Bảng 6: HS KKVV kèm theo
KK khác ở các giai đoạn
Giai
đoạn
Kiểu B Kiểu C Kiểu D
SL % SL % SL %
Đầu
TH
27 1,44 13 0,70 20 1,07
Cuối
TH 17 1,66 6 0,59 21 2,05
Biểu đồ 3. Tỉ lệ HS KKVV kèm theo
các KK khác ở các giai đoạn
Ở những HS có KKVV, những KKVĐ có thể tồn tại lâu dài hoặc tiến bộ cùng với thời gian
học tập, rèn luyện nên ở cuối cấp, tỉ lệ này tuy cao nhưng có xu hướng giảm qua các lớp. Trong
khi đó, những KK trong lĩnh vực tính toán và suy luận ở các HS có KKVV dường như ngày càng
sâu sắc và phức tạp hơn. Nghiên cứu ở nhiều nước khác thấy rằng nhiều HS có KK về toán cũng
152
Vài nét về thực trạng học sinh khó khăn về viết trong trường tiểu học hiện nay...
có vấn đề về đọc và về viết vì có cùng sự bất thường trong nhận thức, hoạt động tâm lí- thần kinh
[5]. Cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều HS KKVV kiểu D, ta có thể thấy rõ sự tác động không
nhỏ của chương trình học tập tới sự bộc lộ khó khăn này bởi rõ ràng là càng về cuối cấp, những
yêu cầu về kĩ năng tính toán và suy luận ngày càng cao, HS vốn có KKVV sẽ càng gặp trở ngại
hơn nữa trong việc học tập các kĩ năng này.
3. Kết luận
Thực trạng về học sinh khó khăn về viết trong trường tiểu học hiện nay cơ bản đã được phác
họa thông qua các con số định lượng trong nghiên cứu này. Kết quả trong nghiên cứu này cho thấy
sự tồn tại khách quan của những HS KKVV ở trường tiểu học hiện nay với tỉ lệ 2.14% và tỉ lệ xuất
hiện KKVV không đồng đều ở các lớp; HS nam gặp nhiều khó khăn hơn HS nữ trong kĩ năng viết;
HS KKVV chiếm hơn 55% tổng số các các HS KKVH. Các số liệu phân tích cho thấy sự phức
hợp của KKVV với KK trong các kĩ năng học đường khác là phổ biến; nhóm có KKVV kèm theo
KKVĐ chiếm tỉ lệ cao nhất ở giai đoạn đầu tiểu học và có sự gia tăng các KK về tính toán và suy
luận ở HS KKVV khi bước vào giai đoạn sau của bậc tiểu học.
Số liệu thu được từ nghiên cứu này cũng đưa chúng ta đến những suy nghĩ về việc hỗ trợ
HS KKVV trong giai đoạn hiện nay: (1) Việc HS nam có xu hướng gặp KKVV nhiều hơn HS nữ
cho thấy có thể phát hiện sớm HS nam có KKVV nhưng việc hỗ trợ cần có sự khác biệt. Với xu
hướng ngôn ngữ trừu tượng ở HS nữ và xu hướng ngôn ngữ nhạy cảm ở HS nam [2], nên chú trọng
tới kích thích năng lực tri giác thị giác và thính giác ở HS nam trong khi nên kích thích tư duy trừu
tượng ở các HS nữ; (2) Đối với nhóm HS KKVV đơn lẻ, vì số lượng và tỉ lệ xuất hiện rất ít nên có
thể dự đoán rằng đặc trưng KKVV của các em là rất khác so với nhóm kết hợp. Do đó cần thiết
phải tìm hiểu kĩ cơ chế nhận thức và mức độ phát triển kĩ năng viết và có biện pháp hỗ trợ đặc
thù. Đồng thời phải chú ý phát hiện, hỗ trợ sớm để ngăn ngừa xuất hiện khó khăn thứ phát; (3) Đối
với nhóm HS KKVV dạng kết hợp, rất khó để đoán định đâu là KK nguyên phát nhưng có thể dự
đoán được sự liên hệ của năng lực nhận thức tới các khó khăn này. Vì thế cần thiết phải xác định
rõ đặc trưng trong năng lực nhận thức và các biện pháp hỗ trợ phải trên cơ sở tham chiếu chặt chẽ
với những điểm mạnh, điểm yếu trong năng lực nhận thức của HS.
Thực tế việc GV chưa được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn về GD HS KKVH trong đó
có HS KKVV, cũng như việc thiếu những nghiên cứu về biện pháp hỗ trợ trong dạy học cho HS
KKVV đã và sẽ còn đẩy các em tới những thách thức hơn nữa trong việc học tập tại nhà trường.
Điều này cũng đặt ra yêu cầu mới trong công tác giáo dục trẻ có KKVH hiện nay và những nghiên
cứu sắp tới cần đẩy mạnh giải quyết những thách thức này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Berninger, W.V., Cartwright, A., Yates, C., Swanson, H.L., Abbott, R., 1994. Developmental
skills related to writing and reading acquisition in the intermediate grades: Shared and
unique variance. Reading and Writing:An Interdisciplinary Journal, 6, 161 - 196.
[2] Burman, D.D., Bitan, T., Booth, R.J., 2008. Sex Differences in Neural Processing of
Language among Children. Neuropsychologia, 46(5), 1349-1362.
[3] Emerson, E., Hatton, C., 2007. TheMental Health of Children and Adolescents with Learning
Disabilties in Britain. Lancaster University.
[4] Graham, S., Berninger, V.W., Abbott, R., Abbott, S., Whitaker, D., 1997. The role of
mechanics in composing of elementary school students: A new methodological approach.
Journal of Educational Psychology, 89(1), 170–182.
153
Nguyễn Thị Cẩm Hường
[5] Mext (Bộ Giáo dục Văn hóa Thể thao Khoa học và Công nghệ Nhật Bản), 2003. Báo cáo kết
quả điều tra toàn quốc về thực trạng học sinh có nhu cầu hỗ trợ đặc biệt trong lớp thường
[6] Nguyễn Thị Cẩm Hường, 2012. Primary school students’ handwriting speed when copying.
Journal of Science of Hanoi National University of Education, 57 (1), 149-158.
[7] Nguyễn Thị Cẩm Hường, EDA Yusuke, Nguyễn Thị Hoàng Yến, 2011. On the distribution of
errors in transcription of Primary school students in Viet Nam. Journal of Science of Hanoi
National University of Education, 56(1), 97-114.
[8] Rosenblum, S., Weiss, P. L. & Parush, S., 2003. Product and process evaluation of
handwriting difficulties. Educational Psychology Review, 15, 41-81.
[9] U.S. Department of Education, 2003. Twenty-second Annual Report Congress on the
Implementation of the Children with Disabilities with Disabilities Education Act.
Washington, DC: U.S. Government Printing Office.
[10] Yamauchi Chizuko, 2004. Hướng dẫn chữ viết cho HS có KK về đọc viết – Thực nghiệm cải
thiện khuyết tật nhận thức không gian. Tạp chí tinh thần và thần kinh trẻ em, 44(2), 169-177.
ABSTRACT
A quantitative study of primary school students
with handwriting difficulties
This paper performs a quantitative study of students with handwriting difficulties (HWD)
among nearly 3000 primary school students from grade 1 to 5. The data were analysed according to
grade, gender, stage of learning and types of HWD factors. It was found that approximately 2.14%
primary school students (3.30% in male and 0.87% in female) had HWD, which was 55.86% of all
students with learning difficulties. The prevalence of students with HWD increased with age but
this difference was insignificant and it was seen that most students with HWD were also having
difficulty in other academic skills, particularly in reading skill.
Keywords: Handwriting difficulties, learning difficulties, current situation.
154