Tóm tắt
Bài viết tập trung đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước Việt Nam, thể hiện trên các phương diện
cơ bản là: Hồ Chí Minh là người lựa chọn và sáng lập ra Nhà nước kiểu mới; Hồ
Chí Minh là người khơi nguồn cho truyền thống dân chủ hiện đại ở Việt Nam; Hồ
Chí Minh đã xác lập các cơ sở, nền móng pháp lý tổ chức, hoạt động của Nhà
nước ta, nhất là việc xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 492 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của chủ tịch Hồ Chí Minh trong tổ chức và hoạt động của nhà nước Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại
|366
VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
ThS. Phan Bá Linh
Trường Chính trị Trần Phú
Tóm tắt
Bài viết tập trung đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước Việt Nam, thể hiện trên các phương diện
cơ bản là: Hồ Chí Minh là người lựa chọn và sáng lập ra Nhà nước kiểu mới; Hồ
Chí Minh là người khơi nguồn cho truyền thống dân chủ hiện đại ở Việt Nam; Hồ
Chí Minh đã xác lập các cơ sở, nền móng pháp lý tổ chức, hoạt động của Nhà
nước ta, nhất là việc xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Từ khóa: Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức và hoạt động, Nhà nước Việt Nam.
I. MỞ ĐẦU
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 2/9/1945, trên Quảng trƣờng
Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nƣớc
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam), mở ra một kỷ
nguyên mới trong lịch sử dân tộc: Kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Chủ
tịch Hồ Chí Minh là ngƣời sáng lập Nhà nƣớc Việt Nam, Ngƣời đứng đầu Nhà nƣớc 24
năm, có bề dày thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tổ chức và hoạt động của
Nhà nƣớc Việt Nam. Bài viết tập trung đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu vai trò của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong tổ chức và hoạt động của Nhà nƣớc Việt Nam.
II. NỘI DUNG
Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, đất nƣớc ta, dân tộc
ta bƣớc vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhân
dân ta từ thân phận của những ngƣời nô lệ đã trở thành ngƣời chủ đất nƣớc và vận
mệnh của mình. Sự kiện lịch sử ấy, đồng thời đã khẳng định trong thực tế, khát vọng
thiết lập một nhà nƣớc kiểu mới - Nhà nƣớc dân chủ, dân “là chủ” và dân “làm chủ” ở
Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành hiện thực. Vai trò của Ngƣời đối với sự
ra đời của Nhà nƣớc là hết sức to lớn, tƣ tƣởng của Ngƣời về tổ chức và xây dựng Nhà
nƣớc là di sản lớn trong thời đại ngày nay.
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
367|
2.1. Trước hết, Hồ Chí Minh là người lựa chọn và sáng lập ra Nhà nước
Trên hành trình đi tìm đƣờng cứu nƣớc, cứu dân, vận dụng và phát triển sáng tạo
học thuyết về nhà nƣớc của chủ nghĩa Mác - Lênin, chọn lọc, kế thừa những tinh hoa
trong xây dựng nhà nƣớc đã có trong lịch sử dân tộc và nhân loại tƣ tƣởng về một Nhà
nƣớc kiểu mới khác với các nhà nƣớc kiểu cũ của Hồ Chí Minh sớm đƣợc hình thành
và phát triển. Từ những tƣ tƣởng ban đầu về xây dựng một Nhà nƣớc dân chủ gắn với
thực hiện các quyền tự do, dân chủ, các quyền con ngƣời trong “Yêu sách tám điểm”,
đến quan niệm về một Nhà nƣớc của số đông (Đường Kách mệnh, 1927), chủ trƣơng
thiết lập Nhà nƣớc, Chính phủ Công - Nông - Binh theo mô hình nhà nƣớc Xô viết (1930).
Năm 1941, trên cơ sở những tìm tòi, khảo cứu của mình, tại Hội nghị Trung ƣơng Đảng
lần thứ VIII của Đảng, Hồ Chí Minh đã đề xuất quan điểm xây dựng Nhà nƣớc Dân
chủ nhân dân: “Chính quyền của nƣớc Việt Nam dân chủ mới không phải thuộc quyền
riêng của giai cấp nào và của chung toàn dân tộc”1. Đó là mô hình nhà nƣớc đại biểu
cho khối đai đoàn kết của toàn thể quốc dân, nhà nƣớc thực sự của dân, do dân và vì
dân. Từ đây, ở nƣớc ta, việc thiết kế, tổ chức Nhà nƣớc đều quán triệt quan điểm cơ
bản chỉ đạo đó, nghĩa là xây dựng Nhà nƣớc dân chủ nhân dân. “Đây là một sáng tạo
lớn về lý luận và thực tiễn của Hồ Chí Minh và của Đảng ta”2.
Sau ngày độc lập, trong gần ¼ thế kỷ, trên cƣơng vị là Chủ tịch nƣớc, nguyên thủ
quốc gia, Hồ Chí Minh đã để lại dấu ấn sâu đậm về một phong cách lãnh đạo Nhà
nƣớc, trở thành chuẩn mực cho các thế hệ lãnh đạo sau này.
2.2. Hồ Chí Minh là người khơi nguồn cho truyền thống dân chủ hiện đại ở Việt Nam
Dân chủ trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh “là của quý báu nhất của nhân dân”, đó là
một giá trị xã hội phổ biến, nền tảng quan trọng nhất để xây dựng và phát triển một xã
hội tốt đẹp. Ngay từ khi chỉ thị thành lập Khu giải phóng năm 1945 - hình ảnh “nƣớc
Việt Nam mới phôi thai”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập dƣợt để nhân dân cầm chính
quyền. Sau ngày giành chính quyền, nhất quán và xuyên suốt trong tƣ duy và hành động
của Ngƣời vẫn là xây dựng Nhà nƣớc dân chủ, Nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.114.
2
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Trung cấp lý luận chính trị - hành
chính. Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội, tr.403.
Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại
|368
Là Nhà nƣớc của dân vì dân “là chủ”, dân là ngƣời có địa vị, quyền lực cao nhất:
“Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “quyền hành và lực lƣợng đều ở nơi dân”3, dân có
quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nƣớc, dân tộc. Toàn bộ nhà
nƣớc đƣợc thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân; đội ngũ cán
bộ, công chức nhà nƣớc là công bộc, đầy tớ của nhân dân: “Trong bộ máy cách mạng,
từ ngƣời quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nƣớc đều là phân công làm đầy tớ cho
dân. Đó là vinh dự cao nhất”4.
Là Nhà nƣớc do dân vì dân “làm chủ”. Nhân dân là ngƣời tổ chức nên các cơ
quan nhà nƣớc từ Trung ƣơng đến địa phƣơng thông qua thực hiện chế độ tổng tuyển
cử phổ thông, trực tiếp, bỏ phiếu kín bầu các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan
quyền lực nhà nƣớc... Hồ Chí Minh viết: “Chính quyền từ xã đến chính phủ Trung
ƣơng do dân cử ra”5. Không những vậy, Nhân dân còn có quyền thực hiện chế độ bãi
miễn đại biểu, bãi miễn Chính phủ nếu không còn đƣợc nhân dân tín nhiệm, nếu đi
ngƣợc lại lợi ích của nhân dân. “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi
Chính phủ”6; Nhân dân có quyền phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nƣớc, các đại biểu do mình cử ra “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân
dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong
đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là:
ngƣời đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân”7. Đặc biệt, vì dân “làm chủ”, bên cạnh
quyền, dân còn phải biết phát huy năng lực, bổn phận và trách nhiệm của mình, Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”8. Đây chính là sự
thống nhất biện chứng của cả quyền và nghĩa vụ làm chủ; đồng thời thể hiện bản chất
dân chủ triệt để của Nhà nƣớc kiểu mới trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
Là Nhà nƣớc của dân, do dân thì tất yếu Nhà nƣớc đó phải vì dân. Theo Hồ Chí
Minh: “Chính phủ thì việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân
dân”, mọi công tác chính quyền phải vì mƣu cầu quyền lợi hạnh phúc cho nhân dân:
"Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh"9.
3
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.232.
4
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.437.
5
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.232.
6
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.75.
7
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.81.
8
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.232.
9
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.65.
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
369|
Muốn vậy, Nhà nƣớc phải thật sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan liêu, tham nhũng,
đặc quyền, đặc lợi
Điều căn bản của một chế độ dân chủ trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là “Nhà nƣớc
ta phát huy dân chủ đến cao độ, đó là do tính chất Nhà nƣớc ta là Nhà nƣớc của nhân
dân. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên đƣợc tất cả lực lƣợng của nhân
dân đƣa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh
đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Ngƣời cho rằng, Nhà nƣớc ta phải phát huy
dân chủ, phải làm cho việc thực hành dân chủ đƣợc thể hiện và thấm sâu vào tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội vì “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể
giải quyết mọi khó khăn”10.
2.3. Hồ Chí Minh đã xác lập các cơ sở, nền móng pháp lý tổ chức, hoạt động của
Nhà nước ta, nhất là việc xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức rõ vị trí, vai trò của pháp luật trong điều hành và
quản lý xã hội. Từ năm 1919, trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam, Ngƣời đã nêu
ra 4 điều liên quan đến pháp quyền. Tiếp đó trong Việt Nam yêu cầu ca (1920), Ngƣời
đã nhấn mạnh: “Bảy xin hiến pháp ban hành, Trăm đều phải có thần linh pháp
quyền”11. Theo đó, mọi quan hệ xã hội, mọi lĩnh vực của đời sống theo Hồ Chí Minh
đều chịu sự chi phối của pháp luật. Pháp luật là cơ sở đảm bảo thực hiện các quyền tự
do, dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân. Nhất quán với quan điểm của mình, ngay
sau ngày độc lập, Ngƣời đã đề ra với Chính phủ một trong sáu nhiệm vụ cấp bách là:
“Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm
càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”12. Và trên cƣơng vị là
Chủ tịch nƣớc, Hồ Chí Minh vừa là nhà lập pháp, đồng thời là nhà hành pháp có công
lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp ở nƣớc ta, đã hai lần đứng đầu Ủy ban
soạn thảo Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp 1959, đã ký công bố 16 đạo luật, 613 sắc
lệnh và nhiều văn bản dƣới luật, trong đó có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức nhà
nƣớc, qua đó hình thành một thể chế bộ máy nhà nƣớc có nhiều nhân tố cơ bản của một
nhà nƣớc pháp quyền kiểu mới.
10
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.325.
11
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.473.
12
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.7.
Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại
|370
Điều trăn trở của Hồ Chí Minh là làm thế nào để nhà nƣớc pháp quyền trong
sạch, vững mạnh, hiệu quả và thực sự vì dân. Ngƣời luôn yêu cầu luật pháp phải dựa
hẳn vào lực lƣợng nhân dân, lực lƣợng lao động làm nền tảng. Đó là nội dung quyết
định bản chất luật pháp của Nhà nƣớc ta và luật pháp của chúng ta dựa vào đó để xây
dựng. Pháp luật là phƣơng tiện để xây dựng và củng cố Nhà nƣớc để đi đến mục đích
cuối cùng là hiệu quả quản lý xã hội, làm cho đất nƣớc ngày càng tăng trƣởng, ổn định
chính trị, kinh tế, đời sống nhân dân ngày càng cao. Đây chính là tính định hƣớng xã
hội chủ nghĩa của Nhà nƣớc pháp quyền trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt, trong
thực thi pháp luật, Hồ Chí Minh yêu cầu phải đảm bảo tính khách quan, công bằng,
bình đẳng; phải kết hợp chặt chẽ giữa “đức trị” và “pháp trị”, giữa “xây” và “chống”,
không đƣợc coi nhẹ mặt nào Muốn vậy thì Nhà nƣớc phải do Đảng Cộng sản lãnh
đạo. Ngƣời khẳng định: “Đảng ta là một đảng cầm quyền”13. Nhƣng “Đảng cầm
quyền” chứ không phải đảng trị, do đó, mọi cán bộ, đảng viên, công chức phải biết tôn
trọng Nhà nƣớc; phải vừa có đức, có tài, tận tâm, tận lực suốt đời phục vụ nhân dân,
gƣơng mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật của Nhà nƣớc.
Về mặt tổ chức, Hồ Chí Minh đề ra phƣơng châm xây dựng một bộ máy gọn, nhẹ,
có cơ cấu hợp lý, có khả năng bao quát và giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, xã hội, văn
hóa của đất nƣớc: Quốc hội thành cơ quan quyền lực Nhà nƣớc cao nhất, đại diện ý chí,
nguyện vọng của toàn dân; Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất, thực sự mạnh
mẽ, sáng suốt của nhân dân. Xây dựng một nền hành chính quốc gia thống nhất trên
nền tảng dân chủ, hiện đại; xây dựng một bộ máy tƣ pháp có tính độc lập tƣơng đối,
dân chủ, hiện đại, xét xử công bằng theo luật. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng
bộ máy chính quyền cơ sở, nhất là cấp xã, vì đó là tế bào hạt nhân cấu thành mạng lƣới
tổ chức nhà nƣớc, là nền tảng của mọi công tác chính quyền. Cùng với xây dựng bộ
máy, Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nƣớc lấy đạo đức
công vụ làm “gốc”, có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, biết quản lý nhà nƣớc,
thành thạo nghiệp vụ hành chính Hồ Chí Minh rất kiên quyết với những hành vi vi
phạm pháp luật và trừng trị nghiêm khắc những cán bộ, công chức vi phạm, dù ngƣời
đó ở cƣơng vị nào. Ngay khi Nhà nƣớc mới ra đời, Ngƣời đã ký Sắc lệnh ấn định hình
phạt tội đƣa và nhận hối lộ sẻ bị phạt từ 5 đến 20 năm khổ sai và nộp phạt gấp đôi số
tiền nhận hối lộ. Ngày 21/1/1946, Ngƣời ký lại “Quốc lệnh” khép tội tham ô, trộm cắp
13
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.611.
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
371|
của công vào tôi tử hình và nói rõ “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm,
bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Mỗi ngƣời phải nhận rằng, tham lam là
một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nƣớc, với dân”14. Trong trả lời chất vấn
Quốc hội vào năm 1946, Ngƣời nói: “Chính phủ hết sức làm gƣơng, nếu làm gƣơng
không xong thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ, đã trừng trị, đang trừng trị
và sẻ trừng trị cho kỳ hết”.
III. KẾT LUẬN
75 năm đã qua kể từ ngày Hồ Chí Minh khai sinh ra Nhà nƣớc. Từ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, nội dung nhiệm vụ
của Nhà nƣớc tuy có sự khác nhau, song bản chất vẫn là Nhà nƣớc của dân, do dân, vì
dân mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Trong giai đoạn lịch sử mới, sự nghiệp đổi mới ở nƣớc ta ngày càng đi vào chiều
sâu, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc đang đƣợc đẩy mạnh. Để tranh
thủ nắm lấy vận hội, vƣợt qua nguy cơ, thách thức đƣa sự nghiệp xây dựng đất nƣớc
giành thắng lợi theo đúng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, Nhà nƣớc ta phải không ngừng
hoàn thiện, thực sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, hiệu lực.
Kế thừa, vận dụng sáng tạo những giá trị tƣ tƣởng và sự nghiệp của Hồ Chí Minh
trong xây dựng, tổ chức Nhà nƣớc, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây
dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa bảo đảm Nhà nƣớc ta thực
sự của dân, do dân và vì dân, do Đảng lãnh đạo”15. Tập trung thực hiện tốt cải cải cách
thể chế và phƣơng thức hoạt động của Nhà nƣớc; phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật,
kỷ cƣơng, tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa; Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
trong sạch, có năng lực; đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; tăng cƣờng
sự lãnh đạo và đổi mới phƣơng thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nƣớc, gắn liền với
xây dựng, chỉnh đốn Đảng với cải cách bộ máy hành chính.
Năm tháng trôi qua, nhƣng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc của dân, do dân,
vì dân còn sống mãi. Lịch sử đã, đang và mãi mãi nghi nhận những đóng góp to lớn,
vai trò quan trọng của Ngƣời đối với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nƣớc Việt
Nam Dân chủ cộng hòa nay là Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
14
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.127.
Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại
|372
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr.114.
2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Trung cấp lý luận
chính trị - hành chính. Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập (15 tập), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.246.