Tóm tắt
Cách mạng tháng Tám năm 1945 gắn liền với Hồ Chí Minh - Người đã giải quyết
thành công vấn đề dân tộc; chủ động tập hợp, xây dựng và phát triển lực lượng để tiến
hành Tổng khởi nghĩa. Người cũng đã dự đoán, nắm bắt thời cơ cách mạng, đề ra chủ
trương, kế hoạch phát động Tổng khởi nghĩa một cách chính xác và kịp thời, từ đó nước
Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 414 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 16 * 2017 43
VAI TRÒ CỦA HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI THẮNG LỢI
CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
Võ Thị Tem*
Tóm tắt
Cách mạng tháng Tám năm 1945 gắn liền với Hồ Chí Minh - Người đã giải quyết
thành công vấn đề dân tộc; chủ động tập hợp, xây dựng và phát triển lực lượng để tiến
hành Tổng khởi nghĩa. Người cũng đã dự đoán, nắm bắt thời cơ cách mạng, đề ra chủ
trương, kế hoạch phát động Tổng khởi nghĩa một cách chính xác và kịp thời, từ đó nước
Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời.
Từ khóa: dân tộc, cách mạng Tháng 8-1945, Hồ Chí Minh
Abstract
The role of president Ho Chi Minh in the victory
of the August Revolution in 1945
The August Revolution in 1945 went along with President Ho Chi Minh, who
successfully resolved the primary task of national liberation struggle; actively mobilized,
organized and developed the armed forces for the General Uprising. He also anticipated,
seized the revolutionary moment to put forward accurately and timely the plans for the
General Uprising in August 1945, which was a very important factor contributing to the
Birth of the Democratic Republic of Vietnam.
Keywords: nation, August revolution, 1945, president Ho Chi Minh
Cách đây 72 năm, dân tộc ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương và chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nổi
dậy tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa đập tan
gông xiềng nô lệ thiết lập nên một nhà
nước mới - Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa- nhà nước Dân chủ Nhân dân đầu
tiên ở Đông Nam châu Á.
Với Cách mạng tháng Tám năm
1945: “ Chẳng những giai cấp lao động và
nhân dân Việt Nam có thể tự hào, mà giai
cấp lao động và những dân tộc bị áp bức
nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này
là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của
các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một
Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng
thành công,
___________________________
* ThS, Trường Đại học Phú Yên
đã nắm chính quyền toàn quốc” [1, tr.159].
Đảng ta từ một Đảng không hợp pháp đã
trở thành một Đảng lãnh đạo chính quyền,
dân ta từ một người nô lệ đã chính thức trở
thành chủ nhân của một đất nước... Thắng
lợi vĩ đại gắn liền với công lao to lớn của vị
lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh.
1. Đúc rút từ kinh nghiệm hoạt
động thực tiễn, với khả năng tư duy chiến
lược sắc sảo và lập trường kiên định vững
vàng, Hồ Chí Minh đã giải quyết thành
công vấn đề dân tộc ở một quốc gia
thuộc địa nửa phong kiến. Từ những cuộc
hành trình bôn ba khắp năm châu bốn bể,
Người đã chứng kiến, trải nghiệm và cảm
nhận sâu sắc nỗi thống khổ của một người
dân mất nước nên ngay từ đầu Hồ Chí
Minh đã đưa ra những quan điểm đúng đắn
cho giải pháp về cách mạng Việt Nam
44 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN
(Cương lĩnh năm 1930). Song những quan
điểm đúng đắn đó của Người không dễ
dàng được nhận thức và chấp nhận ngay
trong buổi đầu cách mạng nước ta. Thậm
chí Người còn bị Quốc tế Cộng sản và
Trung ương Đảng hiểu lầm khi coi Người
là dân tộc chủ nghĩa, quốc gia cải lương
đồng thời ra “án nghị quyết” thủ tiêu cương
lĩnh đầu tiên của Người. Người vẫn im lặng
và tiếp tục cần mẫn nghiên cứu.
Vào cuối những năm 1930, tình
hình thế giới thay đổi nhanh chóng, đặc biệt
là nguy cơ chiến tranh thế giới thứ hai đang
đến gần. Tình thế thay đổi, những quan
điểm trước đây của Hồ Chí Minh được
Quốc tế Cộng sản và Trung ương Đảng ta
dần dần nhận thức ra và đánh giá đúng giá
trị của nó.
Hội nghị Trung ương Đảng tháng
11/1939 tại Bà Điểm (Gia Định) là một
mốc lớn cho sự chuyển hướng chiến lược
của cách mạng Việt Nam và trên thực tế, là
sự xóa bỏ những nhận thức không đúng về
Hồ Chí Minh cũng như quan điểm của
Người. Các thế hệ lãnh đạo của Đảng lúc
này như: Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, đặc
biệt là Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ
những người không theo học ở Trường Đại
học Cộng sản Phương Đông, không hoạt
động ở Liên Xô trong những năm Quốc tế
Cộng sản đi vào chiều hướng tả khuynh,
nên các đồng chí này đã có những nhận
thức và khả năng tiếp thu một cách nhanh
chóng nhất các quan điểm của Người. Đặc
biệt, lần đầu tiên Trung ương Đảng chủ
trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng
đấtkhi Người khẳng định sự sinh tồn của
dân tộc Đông Dương không có con đường
nào khác ngoài con đường đánh đổ đế quốc
Pháp. Vì vậy, tất cả mọi vấn đề cách mạng,
kể cả cách mạng ruộng đất cũng phải tạm
gác lại.
Trước những diễn biến phức tạp
của tình hình thế giới, với tầm nhìn vượt
thời đại và khả năng tư duy sắc sảo, người
tiếp tục nhân định : “Việc Pháp mất nước là
một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng
Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước
ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này
là có tội với cách mạng” [2, tr.234]. Từ
nhận định trên, Người đã đề nghị Quốc tế
Cộng sản cho Người trở về nước để trực
tiếp lãnh đạo cách mạng trong nước. Được
sự đồng ý của Quốc tế Cộng sản, tháng
1/1941 Người đã đặt chân lên mảnh đất
Cao Bằng bắt đầu công cuộc chỉ đạo trực
tiếp cách mạng Việt Nam. Người tiếp tục
khảo sát, phân tích tình hình trong nước và
thế giới. Nhiều Hội nghị cũng được tổ chức
để đánh giá tình hình và đề ra những chủ
trương đúng đắn, kịp thời cho cách mạng
Việt Nam. Đặc biệt, Hội Nghị Trung ương
Đảng tháng 5/1941 là một mốc cực kỳ quan
trọng. Nó thực sự đánh dấu cho sự trở về
của tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã đề ra
nhiều chủ trương quan trọng, trong đó tư
tưởng nổi lên, bao trùm xuyên suốt nhất là:
giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt
nhiệm vụ chống đế quốc, tay sai, giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu
hiệu ruộng đất. Nghị quyết Hội nghị đã thể
hiện rất rõ quan điểm đúng đắn của Người:
“Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của
giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong
của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này
nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc
giải phóng, không đòi được độc lập tự do
cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn
thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp
ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai
cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”
[3;113]. Như vậy, lần đầu tiên, với tư cách
là cán bộ Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh
trực tiếp chủ trì Hội nghị để chính thức hóa
quan điểm của mình. Đây là Hội nghị bàn
sâu và cụ thể nhất về những vấn đề có liên
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 16 * 2017 45
quan đến cách mạng giải phóng dân tộc
Việt Nam theo đúng tinh thần của Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930.
Để có được nhận thức và lý luận
đúng đắn như vậy đòi hỏi mỗi cá nhân phải
có những trải nghiệm thực tiễn phong phú
trên nền tảng tinh thần và tư tưởng tiến bộ
và Hồ Chí Minh là một trường hợp điển
hình. Những quan điểm, chủ trương đó của
Người thể hiện một tư duy chiến lược sắc
sảo, một tầm nhìn vượt thời đại, đồng thời
hoàn toàn phù hợp với tâm tư nguyện vọng
bao đời của quần chúng nhân dân. Do đó,
Nghị quyết đã nhanh chóng đi vào cuộc
sống, thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng
quét sạch bè lũ bán nước và cướp nước tạo
nên chiến thắng vĩ đại của cuộc cách mạng
tháng Tám năm 1945.
2. Với khả năng đồng cảm sâu sắc
và một tầm nhìn chiến lược, Hồ Chí Minh
chủ động tập hợp, xây dựng và phát
triển mạnh mẽ tất cả các lực lượng cách
mạng chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền ở Việt Nam.
Bắt đầu từ sự đồng cảm sâu sắc,
Người tìm thấy ở họ, những con người với
những vị trí, tầng lớp, giai cấp khác nhau
nhưng đều có một điểm chung cao nhất:
đều là người dân mất nước. Đó là điều đặc
biệt quan trọng. Theo Người, chủ nghĩa dân
tộc là một động lực lớn của đất nước. Đó
còn là động lực vĩ đại và duy nhất đối với
cách mạng các nước Phương Đông. Chính
vì vậy, Người đã tìm mọi cách khơi dậy
tinh thần tự tôn dân tộc ở họ, không phân
biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông địa chủ,
tư bản bản xứai có lòng yêu nước thương
nòi sẽ góp toàn lực, cùng nhau thống nhất
vào một mặt trận chung để cứu nước. Song
song với việc mở các lớp huấn luyện chính
trị và quân sự cho các cán bộ cách mạng,
Người đã quyết định thành lập Mặt trận
Việt Minh để tập hợp tất cả mọi giai cấp,
tầng lớp trong xã hội. Phát triển mạnh mẽ
các đoàn thể quần chúng nhân dân: từ Nhi
đồng cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh
niên cứu quốc đến Nông dân cứu quốc,
Công nhân cứu quốc... Người xác định:
Mặt trận Việt Minh là để đoàn kết toàn dân,
là một mắt xích quan trọng nối liền Đảng
với dân, bảo đảm cho cuộc khởi nghĩa luôn
có một lực lượng chính trị đông đảo và
rộng khắp sẵn sàng chờ đón thời cơ, chủ
động thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến
đến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi
thời cơ đến. Có thể nói đây thực sự là một
quyết định sáng tạo của Hồ Chí Minh và
chúng ta có thể khẳng định rằng: nếu không
có Việt Minh thì không thể có cuộc Cách
mạng tháng Tám.
Từ năm 1941 tình hình trong nước
và thế giới diễn ra căng thẳng, trong nước
các đồng chí như: Nguyễn Văn Cừ, Phan
Đăng Lưu, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh
Khai đều bị thực dân Pháp xử bắn, Lê
Hồng Phong hy sinh tại nhà tù Côn Đảo,
Nguyễn Ái Quốc bị Tưởng Giới Thạch bắt
giamTrước tình hình đó, Việt Minh công
bố Tuyên ngôn với cả nước: “Việt Nam độc
lập đồng minh ra đời”. Đây chính là bản
chương trình cứu nước của Việt Minh và là
cơ sở xây dựng, phát triển các căn cứ của
Việt Minh rộng khắp ba miền: Bắc- Trung-
Nam. Người cũng chủ trương đấu tranh
trên tất cả các lĩnh vực kể cả lĩnh vực văn
hóa tư tưởng với các tác phẩm, các bài báo
tiến bộ và các phong trào rầm rộ của học
sinh, sinh viên. Cùng với việc xây dựng lực
lượng chính trị của quần chúng thông qua
phong trào Việt Minh, Người đã chú trọng
xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn
cứ địa cách mạng tạo điều kiện cho cuộc
Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Hồ Chí
Minh đã cho xây dựng thí điểm đội vũ
trang ở Cao Bằng và sau đó tiếp tục được
mở rộng sang các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn,
46 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN
Lạng Sơn để chuẩn bị cho sự ra đời của
Khu giải phóng Việt Bắc sau này. Cuối
năm 1944, tình hình thay đổi, để đáp ứng
yêu cầu cấp bách của cuộc cách mạng.
Ngày 22/12/1944, thực hiện chỉ thị của Hồ
Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân do Võ Nguyên Giáp đứng đầu
đã được thành lập ở tỉnh Cao Bằng. Ngay
sau khi thành lập, Đội đã lập chiến công
xuất sắc tiêu diệt gọn hai đồn giặc ở Phay
Khắt và Nà Ngần đã cổ vũ và thúc đẩy
mạnh mẽ phong trào cách mạng của quần
chúng nhân dân, khu căn cứ Cao - Bắc –
Lạng ngày càng mở rộng. Cuối năm 1944-
1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào
giai đoạn kết thúc, Người nhận định tình
hình và nhanh chóng đề ra chỉ thị “Nhật –
Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Bản chỉ thị xác định: Nhật chính là kẻ thù
trước mắt, cụ thể và duy nhất của nhân dân
ta lúc này. Bản chỉ thị (ngày 12/3/1945) đã
thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết,
kịp thời của Trung ương Đảng và Hồ Chí
Minh. Để tập hợp thêm lực lượng, chính
Người đã viết các bức tâm thư kêu gọi, lôi
kéo các tri thức, các quan lại triều đình và
rất nhiều địa chủ phong kiến cũng như các
thế lực trung gian ngả về phía cách mạng,
đi theo cách mạng như: Khâm sai đại thần
Phan Kế Toại, nhân sĩ yêu nước Bùi Bằng
Đoàn, Phạm Khắc Hòe và rất nhiều địa
chủ cấp tiến đã tự nguyện mở kho thóc ủng
hộ cách mạng. Trong các nhà tù Hỏa Lò,
Sơn La, Ban Mê Thuột các chiến sĩ cách
mạng bị địch bắt giam cũng tìm mọi cách
vượt ngục ra ngoài tiếp tục chiến đấu. Hồ
Chí Minh đã thật sự khơi dậy một cách
mạnh mẽ tinh thần yêu nước của tất cả
những ai là con dân Việt Nam. Đặc biệt là
trong tình thế nước sôi lửa bỏng này, tất cả
các giai cấp, tầng lớp đều đã đồng sức,
đồng lòng dốc toàn lực cho cách mạng, sẵn
sàng hiến dâng tất cả cho Tổ quốc. Khi tình
thế cách mạng thay đổi, Người cùng với
Trung ương Đảng tiếp tục ra quyết định
họp Hội nghị quân sự Bắc kỳ, đưa nhiệm
vụ quân sự lên hàng đầu, thống nhất các lực
lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam Giải
phóng quân, xây dựng thêm nhiều chiến
khu quan trọng tạo ra một lực lượng
chính trị, quân sự hùng hậu cho cách mạng
nước nhà. Do có những quyết định vô cùng
sáng suốt, kịp thời của Hồ Chí Minh mà
quân và dân Việt Nam đã giữ vững và phát
triển các thành quả cách mạng, đặc biệt là
những quyết sách trong việc xây dựng và
phát triển mạnh mẽ các lực lượng cách
mạng, tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho
sự thành công của cuộc Cách mạng tháng
Tám sau này.
3. Với nhãn quan chính trị nhạy
bén, sắc sảo và một tinh thần quốc tế vô sản
Hồ Chí Minh đã tranh thủ sự đồng tình,
ủng hộ của các lực lượng dân chủ tiến bộ
trên thế giới tạo nên sức mạnh tổng hợp
cho sự thành công của Cách mạng tháng
Tám. Trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình Hồ Chí Minh luôn tìm
cách tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của bạn
bè quốc tế, tạo hậu thuẫn cho cách mạng
Việt Nam. Đặc biệt hoạt động này càng
được triển khai mạnh mẽ hơn vào cuối
những năm 30 của thế kỉ XX. Người đã
trực tiếp gặp Chu Ân Lai, đại diện Đảng
Cộng sản Trung Quốc bàn về phương án
phối hợp hoạt động cách mạng giữa hai
nước, Người cử các đồng chí đi Diên An –
Trung Quốc tìm cách mở rộng quan hệ
quốc tế, nhận lại thông tin của Quốc tế
Cộng sản và gửi thư yêu cầu sự giúp đỡ của
Quốc tế Cộng sảnBên cạnh đó, một mặt,
Người cũng ra quyết định tranh thủ sự ủng
hộ của Đồng minh. Mặt khác, Hồ Chí Minh
nhanh chóng phát hiện ra mâu thuẫn giữa
Anh- Pháp- Mỹ về vấn đề thuộc địa nói
chung và Đông Dương nói riêng. Với nhãn
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 16 * 2017 47
quan chính trị nhạy bén, Người quyết định
sang Côn Minh gặp đại diện Mỹ để bàn
phương án hợp tác Việt Minh – Mỹ. Theo
kế hoạch đề ra, Mỹ đã giúp Việt Minh một
số thuốc men, đạn dược và trang thiết bị vũ
khí chiến đấu. Ngoài ra, Mỹ còn cử quân
tình nguyện và các nhân viên điện đài đến
huấn luyện cách sử dụng các loại điện đài,
vũ khí và kỹ thuật bài binh bố trận cho lực
lượng vũ trang Việt Minh. Ngược lại, Việt
Minh đồng ý cung cấp những thông tin mật,
hỗ trợ tài liệu quan trọng từ phía Nhật cho
Mỹ cũng như giúp đỡ và chữa trị cho quân
nhân Mỹ gặp nạn trên lãnh thổ Việt Nam.
Trong hoàn cảnh chiến sự leo
thang, tất cả các nước ít nhiều hầu như đều
bị kéo vào vòng xoáy của cuộc chiến, Hồ
chí Minh vẫn đủ năng lực, bình tĩnh phân
tích tình hình và đề ra những quyết sách đối
ngoại vô cùng đúng đắn và hợp lí nhằm vừa
tranh thủ họ, vừa kiểm soát họ vừa khẳng
định tính chính nghĩa cũng như vị thế của
cách mạng nước ta trong Mặt trận Đồng
minh chống phát xít. Những quyết định đó
tạo ra những điều kiện quốc tế vô cùng
thuận lợi cho cách mạng nước nhà và cũng
là một minh chứng điển hình cho quan
điểm của Hồ Chí Minh về đoàn kết mọi lực
lượng có thể đoàn kết, tranh thủ mọi lực
lượng có thể tranh thủ, tất cả vì mục tiêu
độc lập dân tộc.
4. Với một tầm cao trí tuệ và tầm
nhìn vượt thời đại, Hồ Chí Minh cùng
Trung ương Đảng đã nhanh chóng nhận
định tình hình từ việc dự đoán, nắm bắt
thời cơ cách mạng đến việc đề ra chủ
trương, kế hoạch phát động Tổng khởi
nghĩa một cách chính xác, sáng suốt và
kịp thời. Tháng 8/1945 chiến tranh thế giới
thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, Hồng
quân Liên Xô tiến thẳng vào Berlin tiêu
diệt phát xít Đức, ở Đông Dương, quân
Nhật hoang mang, dao động, phong trào
cách mạng trong nước sôi sục, hừng hực
khí thế chiến đấu. Người đã dự đoán trước
tình hình và nhanh chóng nhận định: tình
thế cách mạng trực tiếp đã xuất hiện, thời
cơ cách mạng đã đến. Hồ Chí Minh khẳng
định: thời cơ thuận lợi đã đến, dù hy sinh
đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường
Sơn cũng phải quyết tâm dành cho được
độc lập. Người cùng Trung ương Đảng
quyết định triệu tập Hội nghị toàn quốc và
Đại hội Đại biểu quốc dân ở Tân Trào, sau
khi xem xét, phân tích tình hình Người
quyết định phải khởi nghĩa dành chính
quyền, phải đứng ở vị trí của một nước chủ
nhà trước khi quân Đồng minh tiến vào
nước ta. Khởi nghĩa phải được tiến hành
theo ba nguyên tắc: tập trung, thống nhất và
kịp thời. Đồng thời Người cũng viết thư
kêu gọi Tổng khởi nghĩa toàn quốc: “Giờ
quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến.
Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem
sức ta mà tự giải phóng cho taTiến lên!
Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào
hãy dũng cảm tiến lên”[4, tr.554]. Hưởng
ứng chủ trương Tổng khởi nghĩa và lời hiệu
triệu của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam
đã nhất tề nổi dậy với một tinh thần dũng
cảm, với ý chí quyết thắng quyết đem tất
cả tinh thần, trí tuệ, sức mạnh để làm nên
cuộc Tổng khởi nghĩa lịch sử vào tháng
Tám năm 1945. Có thể nói đây thật sự là
một quyết định vô cùng sáng suốt, kịp thời
của Hồ Chí Minh. Cuộc Cách mạng tháng
Tám năm 1945 là một minh chứng hùng
hồn cho tầm cao trí tuệ của Hồ Chí Minh
đặc biệt là trong việc nhận định thời cơ,
thúc đẩy thời cơ và chỉ đạo chớp thời cơ.
Chọn đúng thời cơ là một khoa học
và là một nghệ thuật. Trong tất cả các cuộc
cách mạng, vấn đề xác định thời cơ, chuẩn
bị lực lượng để chớp thời cơ hành động là
những yếu tố hết sức quan trọng, quyết
định sự thành bại của một cuộc cách mạng.
48 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN
Có thể nói thành công lớn nhất của cuộc
Cách mạng tháng Tám là đã chọn đúng thời
cơ lịch sử để phát động Tổng khởi nghĩa,
làm cho sức mạnh toàn dân ta được nhân
lên gấp bội, giành thắng lợi triệt để một
cách nhanh, gọn, ít đổ máu. Ngay sau thắng
lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám, Hồ
Chí Minh quyết định soạn thảo “Tuyên
ngôn độc lập” và ấn định ngày ra mắt quốc
dân và tuyên bố khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ Cộng hòa vào ngày 2/9/1945
trước khi quân đồng minh vào nước ta giải
giáp quân Nhật. Một lần nữa, một quyết
định vô cùng sáng suốt được đưa ra, thể
hiện một tầm cao trí tuệ, một sự nhạy bén
với thời cuộc của Hồ Chí Minh trước sự
chuyển biến mau lẹ của tình hình quốc tế
và ý chí sắt đá của cả dân tộc Việt Nam.
Nghiên cứu lại toàn bộ cục diện của
cuộc Cách mạng tháng Tám để thấy rõ vai
trò to lớn của Hồ Chí Minh trong từng
chặng đường, từng sự kiện từng cột mốc
quan trọng của lịch sử để có đủ kiến thức,
những bằng chứng để phê phán, bác bỏ
những luận điệu xuyên tạc, sai sự thật của
các thế lực thù địch khi cho rằng: năm
1945, ở Việt Nam xuất hiện một khoảng
trống quyền lực và người Việt Nam chỉ
việc ngồi vào chiếc ghế quyền lực đó mà
không phải làm gì.
Hơn bảy thập niên đã trôi qua kể từ
thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám
và đặc biệt là sự ra đời của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã tạo nên một vóc dáng
tự hào, ngời lên những phẩm chất, tinh hoa
của một dân tộc ngàn năm văn hiến. Thắng
lợi đó gắn liền với công lao to lớn của Hồ
Chí Minh. Từ một đất nước thuộc địa nửa
phong kiến, từ một dân tộc nô lệ, dân tộc
Việt Nam đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”,
trở thành một quốc gia độc lập, thống nhất.
Đồng thời góp phần quan trọng vào tiến
trình cách mạng thế giới, phá vỡ hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, thực hiện
vai trò tiên phong trong sự nghiệp giải
phóng các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Thời cuộc cần một con người. Và thời cuộc
đã chọn Hồ Chí Minh. Cho dù thời cuộc có
nhiều đổi thay nhưng công lao to lớn của
Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta
đặc biệt là cuộc Cách mạng tháng Tám vẫn
luôn trường tồn cùng lịch sử dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, xuất bản lần thứ 4, t.6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
[2] Đầu nguồn (1975), Nxb. Văn học, Hà Nội.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, t.7(1940-1945), Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, xuất bản lần thứ 4, t.3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.