Vấn đề nhận thức và xử lý chất liệu hiện thực của tiểu thuyết Việt Nam đương đại trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế

ABSTRACT The article goes on to point out the relationship between literature and reality, more clearly define reality of cognitive function, material handling problems of literature (the novel is the most typical type). With this spirit, the article covers contemporary novels of Vietnam, especially in the two most typical trends (trends reality - satire and trends reality - fanciful); looks it up on the journey movement of the genre in all three aspects of functionality - content - and poetics; identifies achievements as well as its limitations in the innovation process; proposes some issues of Vietnam novel in the context of innovation and international integration

pdf14 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 297 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề nhận thức và xử lý chất liệu hiện thực của tiểu thuyết Việt Nam đương đại trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Contents  BIỆN MINH ĐIỀN Vấn đề nhận thức và xử lý chất liệu hiện thực của tiểu thuyết Việt Nam đương đại trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế On the cognitive function and material handling of contemporary literature in the context of innovation and global integration ................................................ 5  TÔN THẤT TRÍ ĐẶNG TUẤN THƯƠNG ĐẶNG HẢI VÂN NGUYỄN THANH HUYỀN NGUYỄN ĐÌNH THÚC Cặp ghép Weil và ứng dụng trong vấn đề so khớp bí mật hồ sơ DNA Weil pairing and its application to the privacy DNA profiles matching ............................. 15  ĐẶNG XUÂN DỰ DIỆP KHANH TRẦN THỊ ANH THƯ VÕ QUANG MAI Nghiên cứu tác dụng đồng vận của tia Gamma Co-60 và Hydropeoxit cắt mạch Chitosan có độ đề Axetyl khoảng 70% ở trạng thái trương Study of the synergistic action of Hydrogen peroxide and Gramma ray for degradationof Chitosan ............................................................................................ 21  NGUYỄN CÔNG LÝ Tản mạn về chữ và nghĩa của Truyện Kiều qua một vài trường hợp Some ideas on words and meaning of tale of Kieu through some cases ............................. 32  PHẠM NGỌC LAN Siêu hư cấu và sự phục hưng truyền thống tiểu thuyết trong thời hậu hiện đại An introduction to metafiction as a literary form in postmodernism ................................... 40  TRƯƠNG VĂN ÁNH HỨA BÍCH THỦY Tìm hiểu phạm trù dạng theo ngữ pháp tạo sinh The voice in the light of generative grammar ...................................................................... 53  VÕ ĐỨC TOÀN NGUYỄN PHƯƠNG HOA NGUYỄN THỊ PHƯƠNG TRÚC PHẠM THỊ THANH VÂN Hợp đồng quyền chọn trên thị trường ngoại hối tại một số ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam Option contracts in forex market in some stock commercial bank Vietnam ....................... 69  MAI ĐỨC THẮNG Nâng cao chất lượng công tác rèn luyện kỹ năng mềm cho học sinh Enhancing the quality of training soft skills for high school students ................................. 77  HUỲNH VŨ LAM Vấn đề phản ánh hiện thực trong truyện nói Trạng Ba Phi – từ góc nhìn thể loại Describing the real life in Ba Phi tall tales – in term of the genre features ........................ 85  ĐẶNG THỊ ĐÔNG Thử tìm hiểu về triết lý Phật giáo trong đời sống xã hội A better understanding of Buddhism philosophy in social life .......................................... 101  NGUYỄN HÒA NGUYỄN THỊ UYÊN NHI Áp dụng lý thuyết tập mờ để mở rộng CSDL quan hệ An introduction to FRDB theory ....................................................................................... 108  ĐOÀN THANH HÀ LÊ THANH NGỌC ĐỖ ĐOAN TRANG Đề xuất khung phân tích cho loại đề tài: Mở rộng tín dụng sản xuất tại ngân hàng thương mại Analytical framework for titles as: Expanding productive credit in commercial bank ................................................................................................................ 119  TRƯƠNG VĂN KHÁNH TRẨM BÍCH LỘC Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam giai đoạn 2003-2013: Thực trạng và khuyến nghị Foreign direct investment in Vietnam during the period 2003-2013: Real situation and suggestions ........................................................................................... 132  TRẦN NGỌC GIANG NGUYỄN VĂN MINH Giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong giảng dạy và học tập môn “Luyện âm” cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh tại trường đại học ở Việt Nam An information communications technology (ICT) approach to English pronunciation teaching and learning to undergraduate English majors in Vietnam .............................................................................................................. 142  NGUYỄN THỊ QUỲNH TRANG Đánh giá hàm lượng Asen, Cadimi và chì trong sò huyết (Anadara Granosa) và nước nuôi sò huyết ở một số xã thuộc huyện Cần Giờ, TP.HCM Assessment of levels of arsenic, cadmium, lead in blood cockle (Anadara Granosa) and blood cockle rearing water environment in some communes of Can Gio District, Ho Chi Minh City .................................................. 151  NGUYỄN THỊ CẨM VÂN Tổ chức học tập tự định hướng trong đào tạo giáo viên công nghệ - Kinh tế gia đình thông qua học phần Thực hành quy trình thiết kế thời trang Organize the self-directed learning in training of teachers majoring in technology – Home economics through the unit of Fashion design practical process ................................................................................................................. 159  PHẠM THỊ BẠCH TUYẾT Tác động của đô thị hóa đến phát triển kinh tế - xã hội ở TP.HCM The impacts of urbanization process on socio- economic development in Ho Chi Minh City .......................................................................................................... 167 TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 1 (26) - Thaùng 1/2015 5 VẤN ĐỀ NHẬN THỨC VÀ XỬ LÝ CHẤT LIỆU HIỆN THỰC CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ BIỆN MINH ĐIỀN (*) T M TẮT ă ă ậ ấ ề ử ý ấ u ủ ă ( ểu uy ể oạ u b ểu ấ ). Vớ ầ ấy b b o qu ểu uy V N ư ạ ặ b ở k uy ướ u b ểu ấ (k uy ướ - o ộ k uy ướ - uyề ảo); ì ó ì ậ ộ ủ ể oạ ở ả b ư d ă - ộ du - thi pháp; xá u ũ ư ạ ủ ó o qu ì ổ ớ ; ề uấ ộ s ấ ề ề ểu uy V N o b ả ổ ớ ộ ậ qu ... : ấ ề ậ , ểu uy V N ư ạ , ổ ớ ểu uy , khuy ướ - uyề ảo, k uy ướ – o ộ , b ả ổ ớ , ộ ậ qu , ... ABSTRACT The article goes on to point out the relationship between literature and reality, more clearly define reality of cognitive function, material handling problems of literature (the novel is the most typical type). With this spirit, the article covers contemporary novels of Vietnam, especially in the two most typical trends (trends reality - satire and trends reality - fanciful); looks it up on the journey movement of the genre in all three aspects of functionality - content - and poetics; identifies achievements as well as its limitations in the innovation process; proposes some issues of Vietnam novel in the context of innovation and international integration Keywords: cognitive problems, Vietnam contemporary fiction, novel innovations, trends reality - fanciful, trends reality - satire, innovation context, international integration (*) 1. “Văn học phản ánh hiện thực”, mệnh đề này đã có từ lâu, xuất phát đầu tiên từ quan niệm “nghệ thuật là sự mô phỏng - mimesis” do Platon (427-347 TCN), sau đó là Aristote (384-347 TCN) đưa ra từ thời cổ đại, tưởng như đã trở thành định luận... Nhưng rồi, nó lại được hiểu, được diễn giải theo nhiều cách khác nhau, được bàn đi (*) PGS. TS, Trường Đại học Vinh bàn lại, được bổ sung, điều chỉnh, thậm chí được / bị “xét lại” bởi nhiều quan điểm, lý thuyết khác nhau về mối quan hệ giữa văn học với hiện thực đời sống, xã hội. Ở ta (Việt Nam) cũng đã có ý kiến đề nghị thay thế nó bằng mệnh đề khác, chẳng hạn: “văn học trước hết không phải là phản ánh hiện thực mà là sự nghiền ngẫm về hiện thực”(1)... Gần đây, xuất hiện thêm những kiến giải và gợi mở mới rất đáng chú ý, 6 tiếp tục đào sâu vào bản chất nhận thức hiện thực của văn học(2). Có thể rồi đây, còn xuất hiện nhiều đề xuất khác nữa về vấn đề này. Dẫu thế nào đi chăng nữa, vẫn khó có thể từ chối mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, khó có thể phủ định chức năng nhận thức, phản ánh hiện thực của văn học... Sự “nghiền ngẫm về hiện thực” của văn học thực ra cũng là một “sự phản ánh”, vì “sự nghiền ngẫm” ở đây không phải bằng tư duy luận lý, mà chủ yếu bằng hình tượng, bằng thế giới nghệ thuật - một thế giới “như thật”, để người đọc nhờ trải nghiệm và tưởng tượng mà ngắm, nhìn, chứng kiến, “tham dự” vào cái thế giới “như thật” - hiện thực ấy. Thế giới ấy không thể không có mối liên hệ với thế giới ngoài đời thật. Nó là hình bóng hay nói hoa mỹ hơn là “cái bóng của cái bóng” hiện thực... Tuy nhiên, có lẽ do cái từ “phản ánh” (người Việt quen với từ phản ánh - tiếng Hán: 返 映 - ánh sáng chiếu trở lại, phản chiếu, chiếu lại) gây ra những cách hiểu thụ động và kéo theo nhiều hệ luận khác: “văn học là tấm gương phản chiếu hiện thực”; “là sự mô phỏng, sao chép hiện thực”, “nhà văn là người thư ký trung thành, không thể nói khác sự thật”, “xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy”, v.v... Cách hiểu từ “phản ánh” thụ động như thế và “việc đề cao quá mức đặc tính phản ánh và nhiệm vụ mô tả hiện thực của văn học đã dẫn đến chỗ hiểu lệch bản chất của hoạt động sáng tạo nghệ thuật, coi nhẹ sự tìm tòi tư tưởng và thể hiện những suy nghĩ của cá nhân nghệ sĩ trong tác phẩm”(3). Hệ lụy của cách hiểu thụ động từ “phản ánh” và “việc đề cao quá mức đặc tính phản ánh và nhiệm vụ mô tả hiện thực của văn học” ấy đã dần dần được khắc phục trong văn học ta, nhất là ở tiểu thuyết thời gian qua (từ những năm tám mươi của thế kỷ XX đến nay). Tuy nhiên cũng không vì thế mà cực đoan phủ định chức năng “phản ánh hiện thực” của văn học (mà tiểu thuyết là thể loại có khả năng lớn lao nhất). Vấn đề là cách hiểu từ “phản ánh” như thế nào cho thỏa đáng (Ngay chữ “mô phỏng” - tiếng Hi Lạp cổ: “mimesis” mà Aristote quan niệm(4) cũng không mang nghĩa sao chụp tiêu cực, bị động, thiếu sáng tạo như không ít người đời sau nhầm tưởng). Cũng chẳng có gì mới - và dĩ nhiên không hề cũ - khi cho rằng bản chất và chức năng của văn học là nhận thức hiện thực (trong nhận thức có “phản ánh”, có “nghiền ngẫm”...). Điều quan trọng nhất đáng nói ở đây là việc xử lý chất liệu hiện thực của nhà văn. Lời tuyên bố sắt đanh của Vũ Trọng Phụng: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi coi tiểu thuyết là sự thực ở đời”(5), và thực tế sáng tác của ông cấp cho chúng ta (cả giới sáng tác và giới lý luận phê bình) những bài học kinh nghiệm hết sức quý giá. Ông tuyên bố “tiểu thuyết là sự thực ở đời” nhưng “sự thực” trong tác phẩm của ông đâu phải là sự foto, sao chép hiện thực bên ngoài? Sự thực trong G ô S ỏ Vỡ L ĩ, đặc biệt trong S ỏ (từ chuyện nhỏ trong từng cá nhân, gia đình đến chuyện lớn ngoài xã hội, quốc gia; từ những hiện tượng đơn lẻ, kỳ cục đến tập hợp các hiện tượng “ối a ba phèng” lùng nhùng, phức tạp thành một thế giới mang tính quy mô, chỉnh thể) là những “sự thực” phóng đại, khoa trương, “vô nghĩa lý”!... Vậy mà vẫn rất thực, thậm chí thực hơn sự thực ngoài đời! Mấu chốt của vấn đề là cách nhận thức và xử lý chất liệu hiện thực của nhà văn, để từ đó giúp người 7 đọc cảm nhận được bản chất và cái logic vận động của hiện thực đời sống. 2. Trong hệ thống thể loại văn xuôi tự sự Việt Nam đương đại, có thể nói, tiểu thuyết là thể loại được bàn luận nhiều nhất, được kỳ vọng nhiều nhất, và dường như cũng vì thế mà bị... nghi ngờ nhiều nhất! Câu hỏi “Tiểu thuyết Việt Nam đang ở đâu?” liệu đã có những lời giải khách quan, đáng tin cậy?. Những đổi mới, cách tân của tiểu thuyết thời gian qua, đặc biệt trên phương diện thi pháp thể loại nhờ vận dụng, pha trộn nhiều thủ pháp, kỹ thuật của lối viết “mới”, “tiền phong”, “hiện đại”, “hậu hiện đại” với muôn kiểu “trò chơi” (chơi ngôn ngữ, chơi lịch sử, chơi cấu trúc, chơi kết cấu, chơi nhân vật,...), lắm những thủ pháp (“cắt dán”, “lồng ghép” - “phân mảnh” - modular, phỏng nhại, liên văn bản, ký hiệu hóa, số hóa, vật hóa, “mù mờ hóa”, v.v) quả thực có làm cho diện mạo và đặc điểm của tiểu thuyết Việt Nam đương đại khác với trước. Nhưng liệu nó có làm cho tiểu thuyết có sức thu hút mạnh mẽ hơn đối với độc giả? Điều quan trọng hơn là khả năng nhận thức và xử lý chất liệu hiện thực của nó ra sao với tinh thần đưa tiểu thuyết Việt Nam đi vào quỹ đạo của tiểu thuyết hiện đại thế giới? Cũng đã xuất hiện khá nhiều công trình, bài viết nghiêm túc đi tìm lời giải cho những câu hỏi vừa nêu (Nguyễn Thị Bình với Mộ s k uy ướ ểu uy ở ướ ừ ờ ể ổ ớ y(6), Bùi Việt Thắng với T ểu uy V N ư ạ (7), Mai Hải Oanh với N â uậ o ểu uy V N ư ạ (8), Nguyễn Chí Hoan với N ì ểu uy V N s u 10 ă : G k o k ạ y ộ ạ ủ k o k (9), Thái Phan Vàng Anh với T ểu uy V N ầu k XXI ừ ó ì ậu ạ (10), Nguyễn Bích Thu với Mộ ậ ểu uy V N ờ k ổ ớ (11), Võ Văn với Về s â ủ ểu uy ”(12), Phạm Vĩnh Cư với Vă ư ộ V Nam (13) , Lã Nguyên với Vă k ảo: ì ừ ì ớ qu (14), Vă uô ậu ạ V N : Qu bả â uyề (15), v.v... Có khá nhiều ý kiến lập luận, phân tích sắc sảo, thực chứng. Cũng có không ít những ý kiến có phần lạm dụng trong tụng ca thành tựu đổi mới, cách tân của tiểu thuyết đương đại. Cũng chẳng sao! Điều quan trọng là chỉ ra được xác đáng những tìm tòi, sáng tạo, làm mới thể loại, có ý nghĩa xã hội - thẩm mỹ của tiểu thuyết sau 1 7 . Ở đây còn có quá nhiều vấn đề phải dày công khảo sát, xác định, làm rõ... Những nghi ngờ, băn khoăn xoay quanh câu hỏi “Tiểu thuyết Việt Nam đang ở đâu?” không phải là không có cơ sở. Dẫu sao, cũng không thể không thấy rằng, từ sau 1 7 , đặc biệt từ 1 đến nay, tiểu thuyết Việt Nam có những chuyển biến hết sức lớn lao, không ngừng được đổi mới, cách tân trên cả ba phương diện: chức năng, nội dung và thi pháp của thể loại. Có thể điểm tên không ít những tác giả - tác phẩm được dư luận chú ý: Nguyễn Trọng Oánh với Đấ ắ (tập I: 1 7 , tập II: 1 4), Nguyễn Khải với Cha và con (1 7 ), Nguyễn Mạnh Tuấn với Đ ướ b ể (1982), Lê Lựu với T ờ ắ (1 ), Ma Văn Kháng với Mùa lá o ườ (1 ), Dương Thu Hương với k bờ ảo (1987); Nguyễn Quang Lập với N ả ờ e ắ (1 ); Bảo Ninh với Nỗ buồ (1 0); Nguyễn Khắc Trường với Mả ấ ắ ườ ều (1990); Dương Hướng với k ô ồ 8 (1 0); Chu Lai với Ă y dĩ ã (1992), Phạm Thị Hoài với T s (1995); Nguyễn Việt Hà với C ộ ủ chúa (1 ), Hồ Anh Thái với C ườ u uô ậ (2002), Nguyễn Mộng Giác với Sô Cô ù ũ (2003), Võ Thị Hảo với Giàn thiêu (2003); Châu Diên với N ườ sô M (2003); Đào Thắng với Dòng sông mía (2004); Thuận với Chinatown (2005), Nguyễn Bắc Sơn với Luậ ờ và cha con (200 ), Tạ Duy Anh với G ã b bó (200 ), Lý Lan với T ểu uy b (200 ), Nguyễn Xuân Khánh với Mẫu ượ (2009), Đỗ Minh Tuấn với T ầ bư bướ (200 ), Đặng Thân với 3.3.3.9 [N Mả Hồ T ầ ] (2011), Nguyễn Đình Tú với Kín (2010); Vũ Đình Giang với ờ (2010), Nguyễn Bình Phương với Xe Lên Xe Xu (2011), v.v Nếu chỉ thuần túy điểm danh, tiện nêu những cuốn sách đọc được (một số tác phẩm tiêu biểu, cả ở trong nước và hải ngoại, tạm theo thời điểm ra đời, có chú ý thế hệ tác giả) đã có thể thấy sự đa dạng, phong phú của tiểu thuyết Việt Nam đương đại... Nhìn từ chức năng và nội dung của thể loại với mệnh đề trung tâm là n ận t ức iện t ực, không khó để nhận thấy những đổi mới đáng mừng của tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhằm tiếp cận sát hơn “chất văn xuôi” ngổn ngang, bề bộn, phức tạp của đời sống. Bức tranh của hiện thực đời sống đương đại qua hàng loạt cuốn tiểu thuyết từ những năm tám mươi của thế kỷ XX đến nay rõ ràng là bề bộn, xô bồ, mang đậm hơi thở của đời sống, nhiều mảng màu đan xen, hỗn dung... Nhiều mảng màu, nhưng tông màu (color tone) chủ đạo lại là màu tối. Hiện thực đời sống đương đại trong tiểu thuyết, ngập tràn và bá chủ là những giả trá, bịp bợm, phi nhân tính, “vô nghĩa lý”, đầy bất an... Có vẻ như đây là một biến thức, một dạng thái mới của chủ nghĩa hiện thực (phê phán) trong văn học Việt Nam giai đoạn 1 30 – 1 4 . Điều dễ nhận thấy từ phía chủ thể sáng tạo (nhà văn), nét bao trùm ở tất cả các thế hệ viết là tư duy tiểu thuyết thay thế cho tư duy sử thi; cái nhìn đa chiều, đa phiến thay thế cho cái nhìn đơn chiều, nhất phiến vào các hiện tượng đời sống; quan niệm con người thế sự, đời tư, con người “bất khả tri”,... thay thế cho quan niệm con người sử thi, cộng đồng, con người “biết trước”, v.v... Nhìn từ thi pháp thể loại, càng dễ thấy những đổi mới, cách tân trong bút pháp, lối viết, từ việc đưa “chất văn xuôi” vào trang viết, việc “đi tìm nhân vật” và khắc họa nó... đến cấu trúc, kết cấu, tổ chức sự kiện, tình tiết, phương thức trần thuật và khả năng vận dụng, tổng hợp ưu thế của nhiều loại hình, thể loại văn học, nghệ thuật, báo chí, thông tấn, v.v... nhằm phục vụ cho sức hút của tiểu thuyết trong bối cảnh số phận của thể loại này không dễ tồn tại bởi sự áp đảo của hàng loạt loại hình, phương tiện nghe nhìn, thưởng thức, truyền tin cập nhật hấp dẫn khác... Nhìn trên mặt bằng chung của toàn bộ nền tiểu thuyết là như vậy. Nhưng để tìm một cuốn tiểu thuyết “để đời”, thực tình... vẫn khó. Có phải tiểu thuyết Việt Nam đang nằm ở đường biên giữa giải “Nôben” và “nô đùa” ? Ý kiến khó nghe nhưng thật đáng suy nghĩ !... Từ Đổi mới đến nay, vật liệu, chất liệu từ hiện thực phải nói là quá dồi dào, ngồn ngộn; nhiều lý thuyết mới được du nhập, vận dụng; sự xuất hiện của tiểu thuyết phong phú, đa dạng chưa từng có; không ít những nhà văn dường như đã vắt kiệt sức cho sáng tạo,... Vậy mà, vẫn thiếu những tác phẩm lớn, “để đời”! Lời giải cho bài toán ở đây, có lẽ vẫn là tài năng và sự trải 9 ng iệm của nhà văn chăng? Tài năng, dĩ nhiên, lĩnh vực nào cũng cần, rất cần! Nhưng với sáng tạo văn học, đặc biệt là tiểu thuyết, không thể thiếu sự trải nghiệm. Đây có lẽ vẫn là chỗ hạn chế đáng nói của lớp nhà văn “trẻ”. 3. Có thể thấy tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã mang khá đậm những đặc điểm loại hình cơ bản của tiểu thuyết hiện đại thế giới, nhất là ở phương diện thi pháp thể loại. Căn cứ vào tiêu chí bút pháp này, cũng có thể nhận diện các khuynh hướng. Vấn đề là cách gọi tên các khuynh hướng. Cũng có thể như cách làm của Nguyễn Thị Bình, phân chia thành các khuynh hướng: “1. Tiểu thuyết theo phong cách “lịch sử hoá”; 2. Tiểu thuyết theo phong cách “tự thuật”; 3. Tiểu thuyết tư liệu - báo chí; 4. Tiểu thuyết hiện thực kiểu truyền thống; . Tiểu thuyết theo phong cách hậu hiện đại”(16). Cũng có thể theo cách phân chia khác (do người nghiên cứu xác lập và lựa chọn tiêu chí, hoặc theo cảm hứng hay tư tưởng sáng tạo; hoặc theo phương pháp sáng tác hay trào lưu, chủ nghĩa; hoặc theo thi pháp thể loại hay bút pháp, v.v...) với những cách định danh khác về các khuynh hướng tiểu thuyết Việt Nam thời gian qua... Tuy nhiên, điều đáng lưu tâm nhất, theo chúng tôi là, dẫu theo khuynh hướng nào, tiểu thuyết (cũng như các thể loại văn xuôi tự sự nói chung) cũng phải giải quyết bài toán n ận t ức iện t ực và cách “xử lý” c ất liệu iện t ực để tạo nên những thế giới nghệ thuật dẫu có mới lạ, thậm chí kỳ quái, phi lý đến đâu thì cũng không chạy trốn thực tại, quay lưng lại với đời sống, thiếu trách nhiệm với con người, với cuộc đời, với cả văn chương chân chính. Thiết nghĩ, văn chương chân chính dầu có cách tân, đổi mới đến đâu, kể cả đạp đổ truyền thống, cuối cùng cũng là nhằm phục vụ con người, khiến cho con người hiểu mình, hiểu nhân thế hơn, vươn theo tinh thần “gần người hơn”, nhất là trong bối cảnh đa đoan, phức tạp, lắm biến hoá khôn lường như những thập niên cuối của thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI. Với tinh thần của cái nhìn này, chúng tôi đặc biệt chú ý và đánh giá cao hai khuynh hướng: k uy ướ - o ộ và k uy ướ - uyề ảo trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1 đến nay. Xem ra, đây là hai khuynh hướng tỏ ra ưu trội trong xử lý chất liệu hiện thực và có sức thu hút người đọc mạnh mẽ nhất. Một mặt, nó vẫn tiếp tục đi trên con đường của truyền thống, cách tân truyền thống; mặt khác, biết học hỏi, tiếp thu những cái mới của kỹ thuật viết hiện đại phương Tây với những thử nghiệm táo bạo. Hai khuynh hướng này lại có mối quan hệ khá mật thiết với nhau. 4. Trong sáng tạo văn học, trào phúng/trào lộng với tư cách là một p