Vấn đề phụ nữ trong một số tác phẩm bi kịch Hi Lạp cổ đại

1. Mở đầu Trong lịch sử phát triển của các xã hội có giai cấp, điểm khởi đầu cho những bất bình đẳng nam - nữ cũng đồng thời là khởi đầu cho những sự phản kháng. Ngay từ thời cổ đại Hi Lạp, những tư tưởng manh nha về thân phận người phụ nữ đã được các tác giả sáng tác bi kịch phản ánh với một sắc thái riêng trong buổi đầu của chế độ phụ quyền và xứng đáng được đánh giá một cách trân trọng. Ở Việt Nam, các tác phẩm bi kịch Hi Lạp cổ đại đã được dịch ra và giới thiệu bởi một số dịch giả như Phan Thị Miến, Hoàng Hữu Đản, [2]. Sự hấp dẫn của bi kịch Hi Lạp cổ đại đã thu hút được không ít tác giả đi sâu vào nghiên cứu để tìm hiểu những nét đẹp riêng của nó chủ yếu dưới góc độ văn học. Quyền sống con người trong bi kịch cổ đại Hi Lạp của tác giả Nguyễn Thị Hoàng là một công trình nghiên cứu có giá trị đi vào phân tích một số vấn đề cơ bản của thời Hi Lạp cổ qua bi kịch như vấn đề chiến tranh, tự do dân chủ, số mệnh trong đó có vấn đề số phận và quyền sống của người phụ nữ [5]. Bài viết Bi kịch của lỗi lầm và tội ác của Tất Thắng trên tạp chí Nghiên cứu văn học đã phân tích khía cạnh diễn biến tâm lí nhân vật, những thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật bi kịch [7]. Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc trong Bàn thêm về bi kịch Mêđê đăng trên tạp chí Nghiên cứu Văn học đã kết hợp cách tiếp cận xã hội học khoa học để nhìn bi kịch Mêđê dưới ánh sáng phân tâm học, khám phá phần khuất tối của tâm lí phụ nữ trong hình tượng nhân vật có một không hai này của bi kịch Hi Lạp và cũng là của văn học thế giới, chỉ ra tấn bi kịch của người phụ nữ nói chung, đặc biệt là tấn bi kịch của người phụ nữ trong xã hội Hi Lạp cổ đại đương thời [6];. Qua khảo sát tác giả nhận thấy chưa có công trình nào trình bày một cách hệ thống về vấn đề phụ nữ trong những tác phẩm vĩ đại này. Bài viết góp tiếng nói vào việc hệ thống hóa, làm nổi bật và đánh giá ý nghĩa tiến bộ bình đẳng giới trong nội dung của những kiệt tác của người Hi Lạp cổ.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 252 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề phụ nữ trong một số tác phẩm bi kịch Hi Lạp cổ đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE 2014, Vol. 59, No. 6BC, pp. 53-59 This paper is available online at VẤN ĐỀ PHỤ NỮ TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM BI KỊCH HI LẠP CỔ ĐẠI Phạm Minh Ái Khoa Triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Bi kịch là một phần quan trọng của nền nghệ thuật cổ Hi Lạp. Tinh thần dân chủ, tự do của thời đại, những đổi mới của nhà nước dân chủ chủ nô đã gợi mở cho con người, trong đó có người phụ nữ có một cái nhìn mới đối với thực tại và đối với chính bản thân mình. Những tư tưởng về thân phận người phụ nữ trong các vở bi kịch của các tác gia vĩ đại thời Hi Lạp cổ đại là bài học vô giá về cuộc đấu tranh cho lẽ phải và đạo lí cho đến tận ngày hôm nay. Từ khóa: Cái bi, bi kịch Hi Lạp cổ đại, thân phận, phụ nữ, Etsilơ, Ơripit, quyền bình đẳng, nữ quyền. 1. Mở đầu Trong lịch sử phát triển của các xã hội có giai cấp, điểm khởi đầu cho những bất bình đẳng nam - nữ cũng đồng thời là khởi đầu cho những sự phản kháng. Ngay từ thời cổ đại Hi Lạp, những tư tưởng manh nha về thân phận người phụ nữ đã được các tác giả sáng tác bi kịch phản ánh với một sắc thái riêng trong buổi đầu của chế độ phụ quyền và xứng đáng được đánh giá một cách trân trọng. Ở Việt Nam, các tác phẩm bi kịch Hi Lạp cổ đại đã được dịch ra và giới thiệu bởi một số dịch giả như Phan Thị Miến, Hoàng Hữu Đản, [2]... Sự hấp dẫn của bi kịch Hi Lạp cổ đại đã thu hút được không ít tác giả đi sâu vào nghiên cứu để tìm hiểu những nét đẹp riêng của nó chủ yếu dưới góc độ văn học. Quyền sống con người trong bi kịch cổ đại Hi Lạp của tác giả Nguyễn Thị Hoàng là một công trình nghiên cứu có giá trị đi vào phân tích một số vấn đề cơ bản của thời Hi Lạp cổ qua bi kịch như vấn đề chiến tranh, tự do dân chủ, số mệnh trong đó có vấn đề số phận và quyền sống của người phụ nữ [5]. Bài viết Bi kịch của lỗi lầm và tội ác của Tất Thắng trên tạp chí Nghiên cứu văn học đã phân tích khía cạnh diễn biến tâm lí nhân vật, những thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật bi kịch [7]. Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc trong Bàn thêm về bi kịch Mêđê đăng trên tạp chí Nghiên cứu Văn học đã kết hợp cách tiếp cận xã hội học khoa học để nhìn bi kịchMêđê dưới ánh sáng phân tâm học, khám phá phần khuất tối của tâm lí phụ nữ trong hình tượng nhân vật có một không hai này của bi kịch Hi Lạp và cũng là của văn học thế giới, chỉ ra tấn bi kịch của người phụ nữ nói chung, đặc biệt là tấn bi kịch của người phụ nữ trong xã hội Hi Lạp cổ đại đương thời [6];... Qua khảo sát tác giả nhận thấy chưa có công trình nào trình bày một cách hệ thống về vấn đề phụ nữ trong những tác phẩm vĩ đại này. Bài viết góp tiếng nói vào việc hệ thống hóa, làm nổi bật và đánh giá ý nghĩa tiến bộ bình đẳng giới trong nội dung của những kiệt tác của người Hi Lạp cổ. Liên hệ: Phạm Minh Ái, e-mail: phamminhai@gmail.com 53 Phạm Minh Ái 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Bi kịch Hi Lạp cổ đại Hi Lạp là một bán đảo xinh đẹp ở Đông - Nam châu Âu. Đó là xứ sở của những thành tựu văn hóa nghệ thuật đẹp như thần thoại. Đất nước ấy là của những con người có trí tuệ thông minh, với khả năng thẩm mĩ tinh tế tuyệt vời, đã sáng tạo ra một nền văn minh chói lọi nhất thời cổ đại. Đó là cái nôi của nền văn học - nghệ thuật cổ đại với những thành tựu lớn lao, tồn tại vượt qua những thử thách của thời gian, đến ngày nay vẫn không khỏi làm cho chúng ta phải lạ lùng bỡ ngỡ trước khả năng sáng tạo vô tận của con người. Bi kịch là một phần quan trọng của nền nghệ thuật cổ Hi Lạp. Ra đời vào thời kì tan rã của chế độ công xã thị tộc và nối tiếp của chế độ chiếm hữu nô lệ, bi kịch Hi Lạp mang dấu ấn của xã hội có giai cấp và những cuộc đấu tranh giai cấp đầu tiên của xã hội loài người. Tất cả những đổi thay từ xã hội cũ - công xã thị tộc - sang xã hội mới - chiếm hữu nô lệ, và những cuộc đấu tranh trên đều được phản ánh khá chân thực trong bi kịch cổ đại Hi Lạp. Bên cạnh những xung đột xã hội, vai trò và ý thức của con người cũng khác trước. Tinh thần dân chủ, tự do của thời đại, những đổi mới của nhà nước dân chủ chủ nô đã gợi mở cho con người thời đó có một cái nhìn mới đối với thực tại và đối với chính bản thân con người. Họ tự ý thức được vai trò, thân phận của bản thân mình trong thế giới, trước cuộc đời của mình. Những suy tư và khát vọng, những trăn trở và đấu tranh, tất cả những điều đó đã xuất hiện một mẫu người mới trong các tác phẩm bi kịch cổ đại Hi Lạp. Những con người biết đương đầu với số phận và cuộc sống khắc nghiệt. Họ chịu đựng những cuộc đụng độ, những cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh với số phận một cách thực tế chứ không mang tính huyền thoại, lí tưởng hóa cao độ như trong các bản trường ca trước đó. Mẫu người ấy đã được một hình thức mới của nghệ thuật biểu hiện, đó là hành động kịch, tức là sự phản ứng và cách giải quyết cuộc đấu tranh giữa hai cái đối lập. Đó là những bài học vô giá về cuộc sống và hành trình con người đấu tranh cho lẽ phải và đạo lí. Thể loại bi kịch thỏa mãn nhu cầu cuộc sống tinh thần của lớp người đã có tư tưởng tự do - dân chủ, đã biết ý thức về vai trò của cá nhân đối với thế giới, với cuộc sống xã hội. Họ suy tư trăn trở về cuộc đấu tranh của con người thời đại, sẽ phải gồng mình lên đương đầu với số mệnh, với cuộc sống và chấp nhận những khó khăn, thử thách. Bi kịch Hi Lạp cổ đại là niềm tự hào của văn minh Hi Lạp. Đó là những tác phẩm được liệt vào hàng kiệt tác cho những đặc trưng thể loại của mọi thời đại. Bàn về môi trường phù hợp cho sự ra đời bi kịch, triết gia người Pháp A.Camus cho rằng: “Dường như bi kịch xuất hiện ở phương Tây cứ mỗi khi con lắc của nền văn minh nằm ở khoảng giữa đường từ xã hội thần thánh tới xã hội được xây dựng chung quanh con người. . . ” [1;78]. 2.2. Bi kịch của người phụ nữ trong tác phẩm của Etsilơ và Ơripit Mác đã khẳng định: “Mối quan hệ trực tiếp của con người với con người là mối quan hệ giữa đàn ông và đàn bà. Đó là mối quan hệ tự nhiên nhất giữa người và người” [5;187]. C.Mác, Ph.Ăngghen đã luận giải sự thay đổi cơ bản địa vị của người phụ nữ từ xã hội cộng sản nguyên thủy chuyển sang các xã hội có giai cấp đối kháng. Trong xã hội nguyên thủy, người phụ nữ có vai trò, vị trí rất lớn trong gia đình và ngoài xã hội do họ là người đảm nhiệm chính trong việc tái sản xuất và chăm sóc các thành viên trong gia đình. Nhưng khi chuyển sang xã hội có chế độ tư hữu với sự đối kháng về giai cấp, vị trí, vai trò của người phụ nữ đã có bước thay đổi cơ bản, trở nên rất thấp kém. Chế độ mẫu quyền dần bị phụ quyền thay thế. Ph.Ăngghen viết: ‘Chế độ mẫu quyền bị lật đổ, đó là sự thất bại lịch sử có tính chất toàn thế giới của phụ nữ. Ngay cả ở trong nhà, người 54 Vấn đề phụ nữ trong một số tác phẩm bi kịch Hy Lạp cổ đại đàn ông cũng nắm quyền cai quản, còn người đàn bà thì bị hạ cấp, bị nô dịch..., thành một công cụ sinh đẻ đơn thuần”[4;93]. Người phụ nữ trở thành những nạn nhân đầu tiên của chế độ người bóc lột người. Chúng ta hãy cùng đọc lại bi kịch Hi Lạp cổ đại với hai tác giả tiêu biểu là Etsilơ và Ơripit và thử cùng suy ngẫm về bi kịch của người phụ nữ vào khúc dạo đầu của chế độ phụ quyền. Etsilơ (525 - 456 tr.CN) là cha đẻ của bi kịch cổ đại Hi Lạp (nhận xét của Ăngghen). Ông là nhà thơ của thời kì dân chủ hình thành với những xung đột gay gắt của nó và cũng là người có những cái nhìn sâu sắc quan tâm đến thân phận người phụ nữ. Ông đã viết tất cả 90 vở kịch, nay chỉ còn lại bảy vở. Chính trong vở Các thiếu nữ van xin, Etsilơ đã nêu lên thân phận nhỏ bé của người phụ nữ Hi Lạp cổ qua lời nói phũ phàng của Eteoclo: “Nhiệm vụ của các bà là câm miệng đi và ngồi yên ở xó nhà” “Hỡi Dớt, sinh ra loài phụ nữ làm gì?”[8;283]. Chính những người phụ nữ bị hắt hủi cũng cam tâm chịu đựng số phận của mình, cam tâm, nhẫn nại và chịu tủi nhục. Etsilơ đã đặt lại vấn đề phụ nữ một cách hợp lí và công bằng hơn. Muốn chống lại thói tự ti của phụ nữ, ông đã xây dựng hình tượng những người phụ nữ mạnh mẽ, kiên quyết đấu tranh cho lợi quyền và ý muốn của mình: các con gái của Okenos, Cassandra, Klytemnestra,. . . Etsilơ muốn đấu tranh chống lại tính dè dặt và nhu nhược của phụ nữ bằng cách đưa ra những nhân vật đầy dũng khí, quả cảm, có một ý chí quyết tâm sắt đá để khẳng định không có lí do gì để đặt phụ nữ thấp hơn nam giới cả. Thông qua chất liệu thần thoại, Etsilơ đã thể hiện bi kịch thân phận thông qua xung đột giữa đòi hỏi chính đáng về hạnh phúc của người phụ nữ với thái độ coi thường và hạ thấp nhân phẩm của họ từ phía người đàn ông. Io là một phụ nữ hiền lành, trong trắng vô tội bỗng nhiên bị Dớt say mê nhan sắc, dùng lời dọa nạt bố nàng bắt đuổi nàng xa nhà cửa quê hương. Zeus sau khi thỏa mãn dục tình với nàng đã bỏ mặc nàng phải chịu đựng nỗi khổ do lòng ghen tuông của Hera gây ra. Bị hành hạ, ngược đãi phải long đong chạy hết nơi này đến nơi nọ trong cơn điên hoảng vô cùng đau đớn. Nàng thấm thía nỗi khổ cực ấy, khiến gặp Promete thấy cảnh ngộ hai người tương tự, nàng thấy cuộc sống của mình bi đát không có đường thoát, Io tự hỏi: “Sống như thế này có lợi gì cho mình không”. Nàng lên tiếng tuyên bố không có gì khả ố hơn là một giọng lưỡi lừa người. Nàng muốn biết sự thật dù nó hãi hùng đến đâu. Cuộc đời quá cay đắng khiến nàng mong chết để thoát khỏi oan khổ. Các con gái của Okenos đã phải thốt lên: “Ước gì Số mệnh đừng bao giờ bắt tôi lấy Dớt làm chồng và nằm trong giường của Dớt”. Promete cũng lên án trách nhiệm của Dớt: “Ôi! Đức ông chồng quý hóa sao, tàn ác sao!”[8;287]. Trong vở Agamemnon, cũng như Io, Cassadra bị Apollon - con trai Dớt quyến rũ và bỏ rơi. Nàng oán trách thần đã đẩy nàng vào chỗ chết sau khi biến nàng thành trò cười cho bạn cũng như thù khiến nàng chán ngấy cuộc sống. Những cuộc đời ấy đã nêu lên bi kịch chung của những người phụ nữ bị bỏ rơi sau khi thỏa mãn dục tình của nam giới. Bi kịch này sẽ là phổ biến chừng nào xã hội còn nặng quan điểm coi nhẹ phụ nữ, khinh bỉ phụ nữ. Etsilo đã nhìn thấy sự bất công đó và kiên quyết lên tiếng bảo vệ những người phụ nữ bị đầy đọa và lên án những gã “sở khanh” muôn đời. Phải bằng một trái tim thấm đẫm yêu thương và một khối óc đi trước thời đại, kịch sĩ mới có thể tái hiện lại những nỗi đau khổ của người phụ nữ với một thái độ đầy cảm thông và thấu hiểu như vậy. Chính trong vở kịch Các thiếu nữ van xin, vấn đề căn bản kịch sĩ Etsilơ đặt ra là vấn đề Phụ nữ. Trong chế độ công xã thị tộc, khi xã hội nguyên thủy còn giải quyết vấn đề lương thực bằng cách hái quả và trồng cây lương thực theo lề lối nguyên thủy, vai trò của người phụ nữ quan trọng hơn vai trò của người đàn ông và mẫu hệ phát huy tác dụng. Nhưng khi chuyển sang chăn nuôi từng đàn gia súc lớn và sự sản xuất nông nghiệp bằng cày, vai trò nam giới nổi lên, chế độ phụ hệ hình thành, người phụ nữ không còn đóng vai trò then chốt trong sản xuất và gia đình nữa, nhất là 55 Phạm Minh Ái trong hôn nhân và gia đình. Mặt khác chế độ hôn nhân một vợ một chồng so với các chế độ hôn nhân trước đó là tiến bộ hơn. Nhưng để đảm bảo nhân phẩm, danh dự và yêu cầu chính đáng của người phụ nữ thì như vậy là chưa đủ, cần phải để người phụ nữ có cả quyền lựa chọn người chồng của mình. Vở kịch Những thiếu nữ cầu xin phản ánh thực tế lịch sử thời đại biểu hiện tinh thần phản kháng đối với chế độ thô bạo, cưỡng bức của chế độ hôn nhân tập đoàn, tàn tích của chế độ quần hôn của xã hội thị tộc và khát vọng có một cuộc đời chân chính, tự do. Vinh dự của Etsilơ là đã nêu cách đây 2500 năm vấn đề người phụ nữ trong xã hội có giai cấp, đòi hỏi người phụ nữ có quyền tự chủ, tự quyết định lấy số phận của mình, đặc biệt xây dựng hôn nhân theo ý muốn của mình. Khi chế độ công xã thị tộc tan vỡ, sự cá nhân hóa sản xuất trên cơ sở quyền tư hữu cho phép ý chí cá nhân thoát khỏi ý chí tập thể. Nhưng ý chí cá nhân ở đây là ý chí của người đàn ông. Đó là một sự tổn thiệt lớn cho người phụ nữ. Etsilơ có lẽ là người đầu tiên lên tiếng phản kháng và đòi xã hội có giai cấp tôn trọng ý chí nữ giới, nhân phẩm và danh dự người phụ nữ, nhất là khi ý chí ấy đòi hỏi những điều chính đáng. Trên cơ sở một câu chuyện dân gian, cổ truyền, soạn giả đã xây dựng một đề tài độc đáo, xen vào chuyện cũ một nội dung mới, đặt ra và giải quyết một vấn đề quan trọng mà thời đại đặt ra mà ngoài ông chưa ai phát hiện được. Phải có tư tưởng cực kì tiến bộ mới có thể khám phá ra vấn đề và giải quyết nó một cách một hợp lí hợp tình như vậy không được pháp luật của Hội đồng bảo vệ nhưng lại được Etsilo đặt vào một cương vị hết sức cao và bảo vệ một cách tuyệt đối, bằng ý chí của thần thánh và xương máu của con người. Mối quan hệ chân chính nhất giữa nam và nữ chỉ có thể giải quyết trong xã hội bằng chế độ hôn nhân và gia đình. Chế độ hôn nhân và gia đình một vợ một chồng là một bước tiến, về một phương diện nó nâng cao phẩm giá người phụ nữ. Nhưng muốn chế độ hôn nhân ấy phát huy tác dụng, cần trao cho người phụ nữ quyền tự chủ, tự quyết trong việc lựa chọn chồng mình. Không thể cưỡng bách người phụ nữ lấy người chồng họ không muốn. “Một thiếu nữ bị cưỡng hôn sa vào cuộc đời cơ cực, thà chết còn hơn”; “Một cuộc hôn nhân mà hai bên vừa đôi phải lứa, thuận tình xây dựng quan hệ vợ chồng thuộc loại các công trình thiêng liêng” [8;288]. Pháp luật bảo vệ hôn nhân và gia đình phải mạnh hơn là pháp luật bảo vệ các lời thề nguyền. Làm cho phụ nữ tự tin, coi mình ngang hàng với nam giới, Etsilơ còn cung cấp cho phụ nữ những lập trường đấu tranh nhằm giành quyền lợi căn bản. Qua lời Danoas tuyên bố: “Một người đàn ông cưỡng hôn một người phụ nữ, trái với ý muốn người này, trái với ý muốn của cha người này, làm thế nào giữ được tâm hồn mình trong sáng”. “Ai mà dùng bạo lực cưỡng hôn phụ nữ sẽ phạm một điều nhơ nhuốc khó mà tưởng tượng được. Nhân dân không bao giờ tỏ vẻ khinh lợi quyền phụ nữ, trái lại, quyết định công nhận quyền tự chủ, tự quyết của người phụ nữ, bảo vệ quyền ấy đến cùng dù phải tham chiến, đổ máu chiến sĩ” [8; 285-286]. Ngoài vở Các thiếu nữ van xin, Agmemnon, trong vở Quân Ba Tư, thông qua Ban đồng ca gồm các phụ lão Etsilơ thể hiện sự quan tâm đến lợi quyền của phụ nữ, của những người vợ người mẹ mất chồng mất con trong cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược Hi Lạp. Đứng trước những vấn đề “bất khả tri”, người xưa quan niệm có một lực lượng tối thượng, vô hình, quyết định cuộc đời họ. Đó chính là quan niệm về “số phận” của người Hi Lạp cổ. Cho nên họ đã giải thích nguyên nhân nảy sinh bi kịch là do sự can thiệp của định mệnh vào số phận con người, vì vậy đã làm hình thành trong bi kịch thời đó cái quan niệm nghệ thuật về một “kiểu người số phận”. Từ đó hiểu rộng ra, “bi kịch cổ đại là bi kịch của số mệnh vì trong hầu hết các vở bi kịch, số mệnh chi phối cuộc sống của các nhân vật và con người không sao thoát ra khỏi mạng lưới bủa vây của số mệnh. Thần thánh cùng với số mệnh đè nặng lên cuộc sống của con người và quyết định tất cả”[3;89]. Kiểu người số phận hình thành trong quá trình con người chống lại số 56 Vấn đề phụ nữ trong một số tác phẩm bi kịch Hy Lạp cổ đại phận nghiệt ngã của mình thông qua sự phản kháng định mệnh một cách ngoan cường. Điều đó đã chứng minh con người ngày càng trưởng thành hơn. Tuy nhiên dù mạnh mẽ phản kháng, con người vẫn cảm thấy bất lực trước thần linh. Etsilơ ngậm ngùi kết luận qua lời Promete: “Cho hay, tài ba mấy cũng không qua được số phận”. Thế nhưng, điều làm nên bản chất thẩm mĩ của thể loại bi kịch lại nằm ở chính sự nỗ lực phản kháng chống lại số phận của nhân vật. Dù biết phải trải qua muôn vàn khó khăn và thử thách thậm chí là trả giá bằng sự đau đớn tột cùng và cái chết nhưng bản thân tinh thần phản kháng ấy chính là nguồn cổ vũ lớn lao giúp con người khẳng định nhân vị đích thực của mình. Đó cũng chính là mạch ngầm của tư tưởng giải phóng con người, trước hết là người phụ nữ. Chính trong đau khổ con người thể hiện rõ hơn phẩm giá của mình, ngẩng cao đầu giữ gìn phẩm giá. Trong những sáng tác của Ơripit, bi kịch đã chuyển từ bi kịch số phận sang bi kịch tính cách về phương diện nghệ thuật. Tiến bộ hơn những người đi trước, Ơripit đã khám phá ra nguồn gốc xã hội của bi kịch, xóa bỏ phần nào ảnh hưởng của thế giới quan thần thoại trong quan điểm sáng tác của mình. Quan niệm “thân phận” đi vào nghiên cứu bản chất xã hội của vấn đề số phận, lí giải sự đau khổ của con người trên một cơ sở tiến bộ hơn. Nhân vật của ông không phải là những con rối trong tay thần thánh. Họ là những con người đời thường biết tự do tư tưởng, biết phân tích phê phán, biết cảm xúc suy tư, biết yêu và hận,. . . Và tất cả bị dẫn dắt bởi những đam mê cháy bỏng trong tâm hồn nhân vật. Như vậy, khi khước từ sự can thiệp của thần thánh vào số phận con người, Ơripit đồng thời xác lập sự phụ thuộc của con người vào bản thân mình, cũng có nghĩa là ông đã đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người ở cuối chặng đường của bi kịch Hi Lạp cổ. Ông đã miêu tả những cuộc đấu tranh bão táp trong tâm hồn nhân vật giữa dục vọng và lí trí, giữa tình cảm và danh dự. Bằng con đường phân tích tâm lí, Ơripit đã kiến giải được những đổi thay và sự trưởng thành của tính cách con người trước tác động của ngoại cảnh khắc nghiệt, như vậy cũng tức là ông đã hướng dẫn khán giả về một cách đánh giá con người đúng đắn, toàn diện hơn. Qua các vở bi kịch của mình, ông đã chỉ ra thứ định mệnh bên trong, tức là những dục vọng trong chính con người chính là nguyên nhân dẫn dắt con người tới những bi kịch cuộc sống. Mêđê không phải vở kịch ghen tuông thông thường như quan niệm xưa nay, mà là vở kịch công khai và lớn tiếng đấu tranh cho sự bình đẳng giữa nam và nữ giới, vở kịch của sự trừng phạt. Trong ghen tuông, người đàn bà vẫn ở thế bị động. Trong vở Mêđê là người đàn bà hoàn toàn chủ động: Mêđê nhân danh nữ giới đã lên án rồi trừng phạt thích đáng thói phụ tình của người đàn ông, tự giải quyết lấy số phận của hai đứa con mình. Vậy là tác giả mặc nhiên đặt ra cho sân khấu một chức năng lớn lao, góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển đúng quy luật của xã hội. Quyết liệt nhưng nhân đạo - đó là tính tư tưởng cao nhất của vở Mêđê. Lời của nữ nhạc trưởng đã thay cho lời tác giả: “Đang tâm phụ vợ, công bình còn đâu?” [2,306]. Mêđê đã tái hiện tấn bi kịch của người phụ nữ nói chung và đặc biệt là bi kịch của những người phụ nữ trong xã hội Hi Lạp cổ đại đương thời. Nhân vật Mêđê xuất hiện trong tác phẩm với thân phận một người vợ bị bỏ rơi, một người mẹ bị tước mất thiên chức cao quí của mình và là một người phụ nữ bất hạnh. Sự đổ vỡ trong tình yêu, hôn nhân và hệ quả của nó là sự đổ vỡ niềm tin vào con người và cuộc đời cùng những giá trị cao quí trong đời sống tinh thần đã đẩy Mêđê đi xa khỏi ý thức hướng thiện, đẩy nàng đến gần ước muốn trả thù và nhấn chìm nàng vào lòng hận thù cay đắng. Đó chính là tấn bi kịch của người phụ nữ bị phản bội trong tình yêu và mất lòng tin, bị xô đẩy một cách nghiệt ngã vào bóng tối của sự trả thù. Ơripit không chỉ tái hiện quá trình thực hiện âm mưu tội lỗi của Mêđê, ông còn thành công trong việc khắc họa cái bi kịch thẳm sâu trong nỗi đau của người phụ nữ, người vợ và người mẹ bất hạnh. Vì tình yêu với Dadông, Mêđê đã vứt bỏ tất cả: Tổ quốc, gia đình, thân hữu. Cuộc hôn nhân với Dadông là điều cuối cùng và duy nhất Mêđê 57 Phạm Minh Ái còn giữ lại của cuộc đời. Từ lúc đó, hạnh phúc hay bất hạnh của đời nàng đều tuỳ thuộc vào nó. Bởi thế khi Dadông phản bội nàng, điều đó đồng nghĩa với việc anh ta đã lấy đi tất cả của nàng: “Cuộc đời còn có nghĩa lí gì đối với ta nữa? Chết đi cho hết ràng buộc với hắn!” [2;185]. Nàng lại còn bị đẩy đến bước đường cùng: không chốn dung thân. Hành động của nàng là sự phản kháng chính đáng chống lại sự bất công và bất bình đẳng xã hội đè nặng lên số phận những người phụ nữ đương thời. Nàng chống lại một chế độ xã hội mà ở đó người phụ nữ không muốn làm đàn bà bởi dù đã hiến trọn cuộc đời, vẹn tròn bổn phận nhưng vẫn bị đối xử bất công. Số phận của Mêđê tượng trưng cho số phận của người phụ nữ trong xã hội có áp bức bất công là như thế. Nàng đã phải cay đắng thốt lên: “Ta thà mang khiên ra trận ba lần còn hơn là phải sinh nở dù chỉ một lần thôi”. Không phải nàn