Chúng ta đang sống trong kỷnguyên của kinh tếtri thức, đòi hỏi mỗi
con người phải được đào tạo trình độhọc vấn, năng lực ; tu dưỡng rèn luyện
phẩm chất đạo đức, ýthức lao động tốt hơn đểcóthể đáp ứng những yêu cầu
của sựbiến đổi khoa học công nghệhết sức nhanh chóng.
Trong sựnghiệp đổi mới đất nước với những mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xãhội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người vànguồn
nhân lực được coi lànhân tốquan trọng hàng đầu, quyết định sựphát triển
nhanh, hiệu quảvàbền vững nền kinh tếnước ta. Đólàyếu tốhết sức bức
thiết vàcần cótính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu vềcon người vànguồn
nhân lực xét trong nước ta nói riêng vàquốc tếnói chung. Chúng ta khẳng
định con người vừa làmục tiêu vừa là độnglực của phát triển kinh tếxãhội
đồng thời phải lànhững con người cótri thức và đạo đức. Từ đây mỗi con
người dần dần về đúng vị trílàmột chủthểsáng tạo ra các giátrị , bao gồm
các giátrịtinh thần vàgiátrịvật chất, cho bản thân vàcho xãhội. Vì vậy, vấn
đềcốt lõi là, ta phải thực hiện chiến lược GDĐT nguồn nhân lực, phát triển
con người một cách toàn diện cảthểlực lẫn trílực. Nhiệm vụcủa GDĐT là
đưa con người đạt đến những giátrịphùhợp với đặc điểm văn hoávànhững
yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam đểthực hiện quátrình đổi mới
của nước ta cũng nhưxu hướng phát triển kinh tếnói chung trên thếgiới.
Đềtài: Vấn đềtriết học vềcon người vàcon người trong quátrình đổi
mới hiện nay
19 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề triết học về con người và con người trong quá trình đổi mới hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi
con người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực ; tu dưỡng rèn luyện
phẩm chất đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu
của sự biến đổi khoa học công nghệ hết sức nhanh chóng.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với những mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người và nguồn
nhân lực được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta. Đó là yếu tố hết sức bức
thiết và cần có tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về con người và nguồn
nhân lực xét trong nước ta nói riêng và quốc tế nói chung. Chúng ta khẳng
định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội
đồng thời phải là những con người có tri thức và đạo đức. Từ đây mỗi con
người dần dần về đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá trị, bao gồm
các giá trị tinh thần và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy, vấn
đề cốt lõi là, ta phải thực hiện chiến lược GDĐT nguồn nhân lực, phát triển
con người một cách toàn diện cả thể lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ của GDĐT là
đưa con người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hoá và những
yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện quá trình đổi mới
của nước ta cũng như xu hướng phát triển kinh tế nói chung trên thế giới.
Đề tài: Vấn đề triết học về con người và con người trong quá trình đổi
mới hiện nay
2
NỘI DUNG
Triết học nào cũng phải trả lời bằng cách này hay cách khác câu hỏi:
Con người là gì? Con người sinh ra từ đâu, hoạt động và phát triển ra sao?
Trước khi có học thuyết Mác, những cố gắng của tư duy triết học nhằm
đạt tới sự hiểu biết về con người "cụ thể" hiện thực đều không đem lại kết
quả, rốt cuộc là chủ nghĩa duy tâm vẫn ngự trị trong nhận thức về con người
và về đời sống xã hội.
Chỉ đến triết học Mác, vấn đề con người mới được xem xét một cách
nhất quán, đầy đủ và sâu sắc hơn, trên cơ sở lập trường của duy vật triệt để.
I. CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
1. Bản chất con người
Bất cứ một học thuyết nào về con người đều không thể lẩn tránh một
vấn đề đã được đặt ra trong lịch sử; Con người là gì? Bản chất của con người
là gì? Quan điểm duy tâm quy đặc trưng, bản chất con người vào lĩnh vực ý
thức tư tưởng, tình cảm, đạo đức, hoặc xem bản chất con người là cái gì đó
được quy định sẵn từ những lực lượng siêu tự nhiên.
Một số trào lưu triết học khác lại giải thích bản chất con người từ góc
độ những điểm chung của mọi sinh vật trên trái đất. Bản chất đó là bản tính tự
nhiên, là những nhu cầu thuộc về sự duy trì thể xác và dục vọng để phát triển
giống nòi; hoặc tìm kiếm bản chất con người trong khuôn khổ cá nhân riêng
lẻ, nghĩa là con người bị tách khỏi mối quan hệ xã hội hiện thực của nó. Tính
chất siêu hình của các quan điểm này về bản chất của con người biểu hiện ở
chỗ, con bản chất là cái vốn có trừu tượng và quy nó về bản tính tự nhiên,
tách khỏi xã hội và trở nên bất biến.
Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã tạo ra một bước ngoặt trong việc nhận thức bản chất con
người. Các ông xuất phát từ con người thực tiễn, con người hiện thực, con
người cải tạo thế giới và thông qua hoạt động vật chất con người. Đó là một
động vật có tính xã hội với tất cả những nội dung văn hoá - lịch sử của nó.
3
Như vậy, các ông không xem xét bản chất con người một cách cô lập và phiến
diện mà đặt nó trong mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và con người. Con
người sống dựa vào tự nhiên như hết thẩy mọi sinh vật khác. Nhưng con
người sở dĩ trở thành con người chính là ở chỗ nó khonog chỉ sống dựa vào tự
nhiên, Ph.Ăngghen là người đầu tiên đã chỉ ra được bước chuyển biến từ
vượn thành người là nhờ có lao động. Quá trình con người cải tạo tự nhiên
cũng là quá trình con người trở thành con người. Ph.Ăngghen nói "lao động
sáng tạo ra con người là theo ý nghĩa ấy".
Khác với tự nhiên, xã hội không thể có trước con người mà đã ra đời
cùng với con người, xã hội cũng con người, xã hội cũng không phải là cái gì
trừu tượng, bất biến mà mỗi hình thái kinh tế - xã hội chỉ thích hợp với mỗi
phương thức sản xuất nhất định.Nhân tố quyết định phương thức sản xuất
phát triển lại là lực lượng sản xuất, bao gồm con người và công cụ lao động.
Như thế, không phải cái gì khác mà chính là con người, cùng với những công
cụ do họ chế tạo ra, đã quyết định sự thay đổi bộ mặt xã hội. Vậy xã hội đã
sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì con người
cũng sản xuất ra xã hội như thế.
Trong khi phê phán những quan điểm của Phoiơbắc, xuất phát từ những
cá thể cô lập C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con người:
"Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội". Luận điểm trên thể hiện những điểm cơ bản sau:
- Khi nói bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội, cũng có
nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con
người, nhưng có ý nghĩa quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bởi vì, các quan
hệ khác đều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu sự quy định của quan hệ này. Mỗi
hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất nhất định giữ vai trò
chi phối, và chính kiểu quan hệ sản xuất đó là cái xét đến cùng, tạo nên bản
chất của con người trong giai đoạn lịch sử đó.
4
Ở đây, cái phổ biến (cái chung của nhân loại) tồn tại và thể hiện qua cái
đặc thù (hình thái xã hội, giai cấp) và cái đơn nhất(cá nhân từng con người).
Do đó, khi bàn đến bản chát chung của con người không thể gạt bỏ bản chất
giai cấp của các tầng lớp khác nhau; và ngược lại khi nói bản chất giai cấp
của các tầng lớp khác nhau không được quên bản chất chung của con người.
Nhưng từ đó quy bản chất con người chỉ còn là bản chất giai cấp và tất cả mọi
hoạt động của con người đều được giải thích trực tiếp từ đây lại là xuyên tạc
thực chất quan điểm macxít về bản chất con người. Đây là một quan hệ không
thể tách biệt của các thứ bậc về bản chất trong con người.
- Các quan hệ xã hội không phải chỉ xét ở quan hệ ở từng hình thái xã
hội riêng biệt mà còn khái quát những quan hệ xã hội chung thể hiện qua từng
chế độ, thời đại riêng biệt. Quan hệ xã hội vừa diễn ra theo chiều ngang
(đương đại) vừa theo chiêù dọc lịch sử. Các quan hệ xã hội quy định bản chất
con người bao gồm cả quan hệ xã hội hiện tại và quan hệ xã hội truyền thống,
bởi trong lịch sử của mình con người bắt buộc phải kế thừa di sản của những
thế hệ trước nó.
Trong lĩnh vực văn hoá tinh thần có những truyền thống thúc đẩy con
người vươn lên, nhưng cũng có những truyền thống "đè nặng lên những con
người đang sống". Do đó khi xem xét bản chất con người không được tách rời
hiện tại và quá khứ.
- Cái bản chất không phải là cái duy nhất, mà là bộ phận chi phối trong
chỉnh thể cụ thể phong phú đa dạng. Bản chất và thể hiện bản chất của con
người có khác biệt. Không hiểu bản chất chung của con người hay quy tất cả
những gì của con người để chỉ vào bản chất là sai lầm. Bản chất một con
người cụ thể là tổng hoà các quan hệ xã hội "vốn có" của con người đó và quy
định những đặc điểm cơ bản chi phối mọi hành vi của người đó. Còn tất cả
những hành vi của người đó bộc lộ ra bên ngoài là những hiện tượng biểu
hiện bản chất của họ. Sự thể hiện bản chất của con người không phải theo con
đường thẳng, trực tiếp, mà thường là gián tiếp, quanh co qua hàng loạt mâu
5
thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh nghiệm và nhận thức khoa học, giữa
lợi ích trước mắt và lâu dài; giữa bản năng sinh vật và hoạt động có ý thức
giữa di truyền tự nhiên và văn hoá xã hội Trong diễn biến đầy mâu thaũan
đó, bản chất thể hiện ra như một xu hướng chung, xét đến cùng mới thấy sự
chi phối của xu hướng đó.
Con người là một thực thể sinh vật - xã hội. Thông qua hoạt động thực
tiễn, con người làm biến động đời sống xã hội đồng thời cũng biến đổi chính
bản thân mình. Điều đó cũng có nghĩa là con người tiếp nhận bản chất xã hội
của mình thông qua hoạt động thực tiễn.
Như vậy, bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực,
không phải là tự nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi cá
thể riêng lẻ mà là tổng hoà của toàn bộ quan hệ xã hội. Đây là phát hiện có giá
trị to lớn của Mác về bản chất con người.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành
bản chất con người, song không có nghĩa là, chủ nghĩa Mác- Lênin coi nhẹ
mặt tự nhiên, phủ nhận cái sinh vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người.
Bởi vì theo C. Mác "giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với
nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói
rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên,
nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới
tự nhiên, vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên".
Con người và con vật đều có những nhu cầu như ăn uóng, tính dục,
nhưng C. Mác đã từng vạch ra tính chất khác nhau của những nhu cầu ấy: con
người hoạt động theo bản năng, con người hành dộng theo ý thức. Và chính
mặt xã hội của con người đã làm cho mặt sinh vật trong con người phát triển
ở trình độ cao hơn những động vật khác.
Con người sống, hoạt động không phải chỉ theo những bản năng di
truyền sẵn có như các động vật thông thường mà chủ yếu theo sự phát triển
của văn hoá, của tiến bộ lịch sử - xã hội. Khác con vật, con người ngoài
6
chương trình di truyền, còn có chương trình kế thừa về mặt xã hội. Bằng con
đường giáo dục, chương trình này truyền lại kinh nghiệm của những thế hệ
trước cho các thế hệ sau. Những đặc điểm di truyền của từng người vừa bảo
đảm những thuộc tính sinh học của mình, vừa bảo đảm để con người tiếp thu
chương trình xã hội.
Ngày nay, mối tương quan giữa mặt sinh vật và mặt xã hội trong sự
phát triển của con người vẫn là đối tượng của những cuộc tranh luận khoa học
gay gắt. Nhiều nhà khoa học tư sản vẫn đem đối lập và tách mặt sinh học khỏi
mặt xã hội. Chẳng hạn, phải duy sinh vật tuyệt đối hoá yếu tố sinh vật trong
sự phát triển của con người. Họ tuyên truyền thuyết Đácuyn xã hội. Đại biểu
trường phái này là: Ph.Nítsơ, Trenherơlen, Klovenơ
Nhiều tác giả như Liônen Tigơ và Rôbin Phốcxơ cắt nghĩa hành vi của
con người theo quan điểm di truyền học
Chủ nghĩa Phơrớt cho rằng, toàn bộ cái xã hội trong tâm lý học người
chỉ là mặt khác nhau của giới tính, là sự biểu hiện quanh co của những đam
mê bẩm sinh.
Ngược lại quan điểm xã hội học tầm thường về con người thường quy
kết bản chất con người là một sản phẩm văn hoá của xã hội, của kinh tế và
tước bỏ tính hữu cơ, tính tự nhiên của con người.
Trường phái "Triết học nhân bản hiện đại" quan niệm về bản chất của
con người phải được xuất phát từ nguyên tắc tinh thần.
Xuất phát từ những lập luận trên, kết luận tất yếu rút ra là: con người
với tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên, là sự phát triển tiếp tục của giới tự
nhiên, mặt khác con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực
lượng đối lập với tự nhiên. Sự tác động qua lại giữa mặt sinh học và mặt xã
hội trong con người tạo thành bản chất người.
2. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
7
Con người tồn tại qua những cá nhân người, mỗi cá nhân người là một
chỉnh thể đơn nhất gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể không lặp lại,
khác biệt với những cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ
Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành. Những cá nhân này
sống và hoạt động trong những nhóm cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau
do điều kiện lịch sử quy định. Trong mối quan hệ với giống loài, tức là trong
mối quan hệ với xã hội, cá nhân biểu hiện ra với tư cách sau:
- Cá nhân là phương thức tồn tại của giống loài "người". Không có con
người nói chung, loài người nói chung tồn tại cảm tính.
- Cá nhân là cá thể người riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã
hội, là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách.
- Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội.
Nhưng xã hội thay đổi theo tiến trình lịch sử cá nhân là một hiện tượng có
tính lịch sử. Mỗi thời kỳ lịch sử có một "kiểu xã hội của cá nhân" mang tính
định hướng về thế giới quan, phương pháp luận cho hoạt động của con người
trong thời kỳ lịch sử cụ thể đó.
Nếu như cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể với
giống loài, sự khác biệt biểu hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá nhân
khác thì nhân cách là khái niệm để chỉ sự khác biệt những yếu tố bên trong
riêng biệt với toàn bộ hoạt động sống của nó, của cá nhân này với cá nhân
khác. Nhân cách là nội dung, trạng thái, tính chất, xu hướng bên trong riêng
biệt của mỗi cá nhân. Đó là thế giới của "cái tôi" do tác động tổng hợp của
các yếu tố cơ thể và xã hội riêng biệt tạo nên. Mỗi cá nhân "dấn thân" vào
cuọc sống, tiếp thu và chuyển những giá trị văn hoá của xã hội vào bên trong
mình, thực hiện quá trình so sánh lọc bỏ, tự đánh giá, tự tạo nên thế giới riêng
của mình. Đâylà quá trình kép, xã hội hoá cá nhân và cá nhân hoá xã hội, cá
nhân xã họi và cá nhân nhân cách là thống nhất. Với nhân cách riêng, mỗi cá
nhân có khả năng ý thức về mình, làm chủ cuộc sống của mình, tự lựa chọn
chức năng, niềm vui và trách nhiệm hoạt động cụ thể trong xã hội.
8
Vấn đề cá nhân, nhân cách không giải quyết một cách khoa học nếu
không có phương hướng triết học rõ ràng giải quyết mối quan hệ cá nhân và
xã hội. Mối quan hệ này được giải quyết liên tiếp thông qua tập thể cơ sở. Nó
tạo thành một bộ phận hết sức quan trọng của một cơ thể xã hội hoàn chỉnh.
Cá nhân có nhân cách gia nhập vào tập thể như là bộ phận của cái toàn thể,
thể hiện bản sắc của mình thông qua hoạt động tập thể, nhưng không "hoà
tan" vào tập thể. Đây là mối quan hệ biện chứng bao hàm mẫu thuẫn cá nhân
và tập thể. Tuỳ theo tính chất và khả năng giải quyết những mâu thuẫn đó mà
mối quan hệ này có thể duy trì phát triển hoặc tan rã.
Mối quan hệ cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, tác động
nhau, trong đó xã hội giữ vai trò quyết định. Nền tảng của quan hệ này là
quan hệ lợi ích. Thực chất của việc tổ chức trật tự xã hội là sắp xếp các quan
hệ lợi ích sao cho khách thác được cao nhất khả năng của mỗi thành viên vào
các quá trình kinh tế, xã hội và thúc đẩy quá trình phát triển lên trình độ cao
hơn. Xã hội là điều kiện, là môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân
được thực hiện. Cá nhân không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể
của sự phát triển xã hội, của hoạt động sản xuất và hoạt động xã hội khác. Với
tư cách là chủ thể của lịch sử, cá nhân hành động không phải riêng rẽ mà với
tư cách là một bộ phận của tập thể xã hội (gia đình, giai cấp, dân tộc, nhân
dân). Nhân dân là cộng đồng lớn nhất, trong đó cá nhân hành động như chủ
thể lịch sử. Cá nhân chỉ được hình thành phát triển trong xã hội, trong tập thể.
Sự tác động cá nhân và xã hội mang hình thức đặc thù tuỳ thuộc vào các chế
độ xã hội và trình độ văn minh khác nhau.
Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử đấu tranh để giành tự do
ngày càng cao. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, tự do của người này
được thực hiện bằng cách tước đoạt tự do của người khác. Tự do cá nhân của
giai cấp thống trị được đảm bảo bằng cách tước đoạt tự do của giai cấp bị trị.
Cho nên, quá trình đấu tranh của giai cấp và quần chúng lao động là quá trình
giành tự do của họ đã bị giai cấp thống trị cướp đoạt. Tự do của con người
9
không tách rời những điều kiện xã hội, không tách rời trình độ của con người
chinh phục thiên nhiên. Chỉ đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản con
người mới thực sự có tự do. Ở đây, tất cả những vấn đề về lực lượng sản xuất,
quan hệ kinh tế, hệ thống chính trị, đấu tranh giai cấp đều được thực hiện
theo mục đích phát triển tối đa năng lực con người và vì con người. Trước đây
C.Mác và Ph. Ănghen đã chỉ ra rằng, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm
phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc, và
"sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế".
Chủ nghĩa tư bản hiện đại đang đẩy mạnh quá trình này, nhưng về thực chất
đó vẫn là sự mở rộng quan hệ bóc lột và nô dịch con người sang các dân tộc
khác. Nó tạo ra một số nước tư bản phát triển cao, giàu có, thì đồng thời cũng
làm cho châu Phi đói, châu Á nghèo, châu Mỹ Latinh nợ nần chồng chất.
Chủ nghĩa xã hội thực hiện quá trình quốc tế hoá đời sống nhân loại để
mỗi dân tộc có điều kiện tiếp cận nhanh chóng những giá trị tiến bộ của nhân
loại, làm cho con người phát triển nhân cách phong phú, biết đấu tranh chống
những quan hệ không có tính người trong cuộc sống nhân loại. Đó là đặc
trưng của chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong quan hệ giữa cá nhân và
xã hội.
3. Cá nhân và quần chúng nhân dân trong lịch sử
Lịch sử chẳng qua là hoạt động của con người theo đuổi mục đích của
mình. Nhưng lịch sử không diễn ra qua hoạt động của từng cá nhân cô lập,
tách rời mà phải thông qua hoạt động của quần chúng đông đảo theo những
mục đích nhất định. Khái niệm quần chúng nhân dân có tính lịch sử, nghĩa là
ở các chế độ xã hội khác nhau thì kết cấu quần chúng nhân dân cũng khác
nhau và luôn luôn biến đổi theo sự phát triển của phương thức sản xuất. Nói
chung, quần chúng nhân dân bao gồm tất cả những lực lượng, giai cấp, những
tập đoàn, những cá nhân thúc đẩy sự phát triển của xã hội, trong đó chủ yếu là
quần chúng lao động.
10
Trước Mác, triết học duy tâm và duy vật đều hiểu không đúng đắn vai
trò của quần chúng nhân dân và mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá
nhân trong lịch sử.
Tư tưởng tôn giáo cho rằng, mọi sự thay đổi trong xã hội là do ý chí
của đấng tối cao, là do "mặt trời", ý chí đó được các cá nhân thực hiện. Triết
học duy tâm cho rằng lịch sử nhân loại là lịch sử của các bậc vua chúa, anh
hùng hào kiệt, thiên tài lỗi lạc. Còn quần chúng nhân dân chỉ là "lực lượng
tiêu cực", là "phương tiện" mà các vĩ nhân cần đến để đạt mục đích của mình.
Các nhà duy vật trước Mác tuy không tin vào Thượng đế, thần linh,
nhưng lại cho rằng nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là đạo đức, tư
tưởng, là các vĩ nhân sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định quần chúng nhân
dân là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử vì những lý do sau:
- Tư tưởng tự nó không dẫn đến biến đổi xã hội. Tư tưởng chỉ có giá trị
khi nó dẫn đến hành động làm biến đổi lịch sử, sự thống nhất giữa tư tưởng và
hành động làm phát triển xã hội chỉ có thể xảy ra qua hoạt động của quần
chúng nhân dân. Sức mạnh quần chúng nhân dân là sức mạnh vật chất và mọi
sự vận động lịch sử đều do quần chúng trực tiếp tạo ra. Nói quần chúng nhân
dân quyết định lịch sử là nói tới sức mạnh này.
- Quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng.
Cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động là động lực phát triển của
xã hội.
- Quần chúng nhân dân là người đóng vai trò to lớn trong sự phát triển
văn hoá, nghệ thuật và khoa học. Trong lịch sử, do sự phân công lao động dẫn
đến tạo ra một lớp người chuyên về sáng tạo tinh thần tư tưởng, những hoạt
động này của họ cũng chỉ diễn ra được trên cơ sở đời sống tinh thần và sáng
tạo của quần chúng. Quần chúng nhân dân là người trực tiếp sáng tạo ra văn
học nghệ thuật. Hoạt động thực tiễn của quần chúng là cái gốc, là nguồn vô
11
tận cho văn học nghệ thuật sáng tạo, đồng thời quần chúng nhân dân còn là
người thưởng thức, phê phán, kiểm nghiệm các giá trị đó. Trong lịch sử phát
triển của xã hội, không có văn học dâ