Tóm tắt. Trong bài báo này, tác giả đã trình bày bản chất của phương pháp dạy
học phát hiện và giải quyết vấn đề và quy trình thực hiện phương pháp đó cùng
những mức độ của phương pháp. Bài báo còn trình bày việc ứng dụng phương pháp
dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề trong dạy học chủ đề Tìm tập hợp điểm của
chương trình hình học véctơ lớp 10 Trung học Phổ thông áp dụng cho đối tượng
học sinh khá giỏi. Qua đó, giúp học sinh có cái nhìn tổng quát hơn về vấn đề tìm
tập hợp điểm thoả mãn một đẳng thức véctơ và xoá bỏ mặc cảm cho các em khi gặp
một dạng toán khó. Đồng thời, rèn luyện cho người học khả năng biết phát hiện,
đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong cuộc sống.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 317 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vận dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề trong dạng bài tìm tập hợp điểm thỏa mãn đẳng thức véctơ ở Lớp 10 trung học phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Educational Science - Mathematics, 2013, Vol. 58, pp. 154-161
This paper is available online at
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÁT HIỆN VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
TRONG DẠNG BÀI TÌM TẬP HỢP ĐIỂM THỎAMÃN ĐẲNG THỨC VÉCTƠ
Ở LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Đỗ Thị Hồng Minh
Phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng, Trường Đại học Hải Phòng
E-mail: hongminh.dhhp@gmail.com
Tóm tắt. Trong bài báo này, tác giả đã trình bày bản chất của phương pháp dạy
học phát hiện và giải quyết vấn đề và quy trình thực hiện phương pháp đó cùng
những mức độ của phương pháp. Bài báo còn trình bày việc ứng dụng phương pháp
dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề trong dạy học chủ đề Tìm tập hợp điểm của
chương trình hình học véctơ lớp 10 Trung học Phổ thông áp dụng cho đối tượng
học sinh khá giỏi. Qua đó, giúp học sinh có cái nhìn tổng quát hơn về vấn đề tìm
tập hợp điểm thoả mãn một đẳng thức véctơ và xoá bỏ mặc cảm cho các em khi gặp
một dạng toán khó. Đồng thời, rèn luyện cho người học khả năng biết phát hiện,
đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong cuộc sống.
Từ khóa: Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, tập hợp điểm, môn Hình học
véctơ lớp 10.
1. Mở đầu
Trong một xã hội phát triển nhanh, cạnh tranh gay gắt - một xã hội chỉ dành chỗ tốt
đẹp hơn cho những cá thể và tập thể có sự sáng tạo, việc phát hiện sớm và giải quyết hợp
lí các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành đạt của cá nhân
và của tập thể trong cuộc sống. Vì vậy, tập dượt và rèn luyện cho người học khả năng biết
phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong cuộc sống là một mục tiêu
giáo dục quan trọng.
Trong quá trình dạy học môn Toán ở trường phổ thông, có những vấn đề nhìn riêng
lẻ từng bài toán thì khó thấy được bản chất chung của chúng, trong khi đó trang bị cho học
sinh cách nhìn tổng quát hơn thì học sinh lại dễ tiếp thu, dễ nắm được cái cốt lõi của bài
dạy đó. Vấn đề tìm tập hợp điểm trong môn Hình học véctơ lớp 10 là một vấn đề như vậy.
Bài báo này trình bày việc ứng dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
trong dạy học chủ đề tìm tập hợp điểm của chương trình hình học véctơ lớp 10 Trung học
Phổ thông áp dụng cho đối tượng học sinh khá giỏi. Với mục đích phát huy trí lực của học
154
Vận dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề trong dạng bài tìm tập hợp điểm...
sinh, từng bước tổng quát hóa đưa đến nắm được phương pháp chung tìm ra lời giải đối
với dạng toán tìm tập hợp điểm, xoá bớt nỗi lo sợ của các em khi gặp một dạng toán khó,
qua đó rèn luyện khả năng phán đoán và giải quyết vấn đề trong cuộc sống.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
* Bản chất của phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học trong đó giáo viên
tạo ra những tình huống có vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự
giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức,
rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác. Đặc trưng cơ bản của dạy
học phát hiện và giải quyết vấn đề là "tình huống gợi vấn đề" vì tư duy chỉ bắt đầu khi
xuất hiện tình huống có vấn đề.
Thực chất của dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là việc giáo viên đặt câu hỏi
hoặc nêu vấn đề về bài toán có vấn đề, còn học sinh thì tự lực suy nghĩ, thảo luận, giải
đáp dưới sự định hướng của giáo viên. Quá trình suy nghĩ, thảo luận, giải đáp là điều kiện
tốt để kích thích tính năng động sáng tạo, sự độc lập suy nghĩ của học sinh, đồng thời dần
dần tiếp thu kinh nghiệm hoạt động sáng tạo hình thành phong cách học tập và làm việc
mới. Trong quá trình đó, giáo viên vừa là người cung cấp thông tin, truyền đạt kiến thức
(bằng cách nêu vấn đề) để học sinh lĩnh hội, vừa là người kích thích tính tự giác, tích cực
suy nghĩ sáng tạo của học sinh trong học tập đồng thời tạo ra bầu không khí dân chủ giữa
thầy và trò để đạt hiệu quả cao trong học tập.
Tuy nhiên, cần lưu ý trong quá trình đó giáo viên không phải là người độc quyền
đưa ra các vấn đề và phương pháp giải quyết các vấn đề đó mà cần gợi cho học sinh suy
nghĩ, tìm tòi sáng tạo để đưa ra cách giải quyết mới, ý tưởng mới. Thậm chí trong các ý
tưởng mới đó lại là một vấn đề mới được đặt ra và có thể vấn đề mới đó vượt qua khả năng
kiểm soát của thầy, đòi hỏi thầy phải tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ.
Rõ ràng, điểm mấu chốt của phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
chính là “phương pháp dạy phương pháp”, đó là một phương pháp dạy học hiện đại. Tác
động của thầy dù là quan trọng đến đâu, có hiệu lực đến mấy vẫn là ngoại lực, vẫn chỉ là
hỗ trợ, thúc đẩy, xúc tác, tạo điều kiện. Sức tự học, tự tìm tòi nghiên cứu của học sinh dù
còn yếu kém đến đâu vẫn là nội lực quyết định sự phát triển của bản thân người học. Yêu
cầu cuối cùng của phương pháp dạy học này là không chỉ truyền thụ cho học sinh một
lượng kiến thức khoa học cần thiết mà cái cần đạt tới là giáo dục, xây dựng cho học sinh
có một phương pháp khoa học trong việc tìm tòi nghiên cứu, tìm hiểu và giải quyết mọi
vấn đề gặp phải trong quá trình học tập trước mắt và trong cuộc sống sau này.
Khi áp dụng phương pháp dạy học này, có ý kiến cho rằng vai trò của giáo viên được
giảm nhẹ. Ngược lại, nếu xét về bản chất của phương pháp, ta thấy công việc của người
155
Đỗ Thị Hồng Minh
thầy trở nên cực kì khó khăn. Thầy phải nghiên cứu cho một bài giảng công phu hơn, phải
kết hợp tốt chuyên môn khoa học và năng lực sư phạm. Lênin đã từng nói: “Không ai thay
thế được ông thầy trong nhà trường”. Như vậy, người giáo viên có vai trò quyết định trong
việc thực hiện phương pháp dạy học này, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá
trình dạy học
* Tình huống gợi vấn đề
Theo Nguyễn Bá Kim [1; 187], tình huống gợi vấn đề là một tình huống gợi ra cho
học sinh những khó khăn về lí luận hay thực tiễn mà họ thấy cần thiết và có khả năng vượt
qua, nhưng không phải là ngay tức khắc nhờ một quy tắc có tính chất thuật toán, mà phải
trải qua một quá trình tích cực suy nghĩ, hoạt động để biến đổi đối tượng hoạt động hoặc
điều chỉnh kiến thức sẵn có. Một tình huống gợi vấn đề cần thỏa mãn các điều kiện sau
đây: Tồn tại một vấn đề, gợi nhu cầu nhận thức, gây niềm tin ở khả năng.
* Các bước thực hiện dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
Theo quan điểm của Nguyễn Bá Kim [2; 192-195], hạt nhân của kiểu dạy học này
là sự điều khiển của giáo viên trong quá trình nghiên cứu vấn đề của học trò. Quá trình
này có thể chia thành các bước sau:
Bước 1. Phát hiện hoặc thâm nhập vấn đề
- Phát hiện vấn đề từ một tình huống gợi vấn đề thường là do thầy tạo ra. Có thể liên
tưởng những cách suy nghĩ tìm tòi, dự đoán, gợi động cơ mở đầu.
- Giải thích và chính xác hoá tình huống (khi cần thiết) để hiểu đúng các vấn đề
được đặt ra.
- Phát biểu vấn đề và đặt mục tiêu giải quyết vấn đề đó.
Bước 2. Tìm giải pháp
- Khi phân tích vấn đề, cần làm rõ những mối liên hệ giữa cái đã biết và cái phải
tìm. Trong môn Toán, ta thường dựa vào những vốn tri thức đã học, liên tưởng tới những
định nghĩa và định lí thích hợp.
- Khi đề xuất và thực hiện hướng giải quyết vấn đề, cùng với việc thu thập, tổ chức
dữ liệu, huy động tri thức, thường hay sử dụng những phương pháp, kĩ thuật nhận thức,
tìm đoán, suy luận, như hướng đích, quy lạ về quen; đặc biệt hoá và chuyển qua những
trường hợp suy biến; xem xét tương tự, khái quát hoá; xét những mối liên hệ và phụ thuộc;
suy xuôi, suy ngược tiến, suy ngược lùi. Phương hướng được đề xuất không phải là bất
biến, trái lại có thể phải điều chỉnh, thậm chí bác bỏ và chuyển hướng khi cần thiết. Khâu
này có thể làm nhiều lần cho đến khi tìm ra hướng đi đúng.
- Sau khi tìm ra được một giải pháp, có thể tiếp tục tìm thêm những giải pháp khác,
so sánh chúng với nhau để có thể tìm ra giải pháp hợp lí nhất.
Bước 3. Trình bày giải pháp
Khi đã giải quyết được vấn đề đặt ra, người học trình bày lại toàn bộ từ việc phát
156
Vận dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề trong dạng bài tìm tập hợp điểm...
biểu vấn đề cho tới giải pháp. Nếu vấn đề là một đề bài cho sẵn thì có thể không cần phát
biểu lại vấn đề. Trong khi trình bày, cần tuân thủ các chuẩn mực đề ra trong nhà trường
như ghi rõ giả thiết, kết luận đối với bài toán chứng minh, phân biệt các phần: phân tích,
cách dựng, chứng minh, biện luận đối với bài toán dựng hình, giữ gìn vở sạch, chữ đẹp,...
Bước 4. Nghiên cứu sâu giải pháp
- Tìm hiểu những khả năng ứng dụng kết quả.
- Đề xuất những vấn đề mới có liên quan nhờ xét tương tự, khái quát hoá, lật ngược
vấn đề,... và giải quyết nếu có thể.
* Các mức độ của phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
Mức 1: Người dạy đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Người học thực hiện cách
giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của người dạy. Người dạy đánh giá kết quả làm việc của
học sinh.
Mức 2: Người dạy đặt vấn đề, gơi ý cho người học nêu cách giải quyết vấn đề.
Người học thực hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của người dạy khi cần. Người
dạy và người học cùng tham gia đánh giá.
Mức 3: Người dạy cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. Người học phát
hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự lực đề xuất các cách giải quyết vấn đề. Người học tự
thực hiện cách giải quyết vấn đề. Người dạy đánh giá kết quả làm việc của học sinh.
Mức 4: Người học tự phát hiện tình huống có vấn đề, tự phát biểu được bài toán cần
giải quyết, tự tìm ra cách giải quyết vấn đề, tự thực hiện việc giải quyết vấn đề, tự đánh
giá việc giải quyết vấn đề. Người dạy chỉ có ý kiến bổ sung.
2.2. Vận dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề trong
dạy học chủ đề tìm tập hợp điểm thỏa mãn đẳng thức véctơ
Dù là học sinh khá vẫn thường “sợ” những bài toán tìm tập hợp điểm. Do đó để loại
bỏ tâm lí này, giáo viên nên đặt ra các vấn đề đơn giản từ dễ đến khó, chỉ những “điểm
nút” cần thiết nhất mới gợi mở cho học sinh tổng quát hóa. Tuy bài toán dạng này chưa
hẳn đã thật khó, nhưng nó yêu cầu nhiều thao tác mà nếu học sinh không tự suy nghĩ tìm
tòi thì sẽ dễ chán nản và không thể tiếp thu tốt. Đối với đối tượng học sinh khá giỏi, giáo
viên có thể dạy theo các bước sau:
Hoạt động 1: (Phát hiện hoặc thâm nhập vấn đề): Chia lớp thành các nhóm nhỏ và
giao việc cho các em về nhà tìm các quỹ tích đã biết trong hình học phẳng. Các nhóm tự
trao đổi và thống nhất, buổi học sau giáo viên gọi đại diện các nhóm lên bảng ghi lại các
quỹ tích đã thống kê được lên bảng. Sau đó, giáo viên chốt lại những tập hợp điểm cần
thiết có liên quan đến véctơ lớp 10. Tiếp theo, giáo viên yêu cầu học sinh chuyển các quỹ
tích đó sang ngôn ngữ véctơ, ta được các “quỹ tích cơ bản” sau:
1)
−−→
MA = k−→v với A cố định,−→v không đổi
157
Đỗ Thị Hồng Minh
Tập hợpM là đường thẳng qua A và cùng phương −→v
2) |−−→MA| = |−−→MB| với A,B cố định
Tập hợpM là đường thẳng trung trực của AB
3)
−−→
MA.−→v = 0 với A cố định và −→v không đổi
Là đường thẳng đi qua A và vuông góc với −→v
4)
−−→
MA.
−−→
MB = 0 với A,B cố định
Tập hợpM là đường tròn đường kính AB
5) |−−→MO| = |−→v |
Tập hợpM là đường tròn tâm O bán kính R = |−→v |.
Hoạt động 2 (Tìm giải pháp): Để giúp học sinh tìm ra phương pháp giải các bài
toán dạng này, giáo viên đưa ra tình huống có vấn đề là bài toán sau:
Bài toán: Cho tam giác đều ABC, cạnh a, tìm tập hợp điểmM thỏa mãn:
1)
−−→
MA(
−−→
MB +
−−−→
MC) = 0
2)
−−→
MA(3
−−→
MB +
−−→
MC) = 0
3) 3MA2 = MB2 +MC2
4)
−−→
MA.
−−→
BC = a2
Sau đó giáo viên có thể hướng dẫn học sinh thông qua các câu hỏi gợi mở vấn đáp
như sau:
GV: Phương hướng để giải bài toán này là gì?
HS: Biến đổi để đưa về biểu thức đơn giản có dạng là quỹ tích cơ bản.
Sau đó các em tự suy nghĩ làm câu 1 và dễ dàng giải như sau:
Lấy I là trung điểm BC, ta có:
−−→
MA(
−−→
MB +
−−−→
MC) = 0⇔ −−→MA.2−−→MI = 0⇔ −−→MA.−−→MI = 0.
Suy ra tập hợp điểmM là đường tròn đường kính AI .
Đến câu 2 hầu như học sinh lúng túng, giáo viên có thể tiếp tục gợi mở:
GV: Tại sao các em lại nhanh chóng giải được câu 1?
HS: Vì chọn được điểm I sao cho
−−→
MB +
−−→
MC = 2
−−→
MI
GV: Nghĩa là đưa một tổng véctơ về một véctơ k
−−→
MI? Vậy muốn giải được câu 2
cần phải làm gì?
HS: Tìm điểm I sao cho 3
−−→
MB +
−−→
MC = k
−−→
MI
158
Vận dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề trong dạng bài tìm tập hợp điểm...
Đến đây hầu như các em “bừng tỉnh” vì việc xác định điểm I như vậy học sinh đã
được trang bị rồi. Tuy nhiên giáo viên vẫn tiếp tục kiểm tra lại để nhắc nhở các em học
sinh chưa thật chắc kiến thức cũ.
GV: Xác định điểm I như thế nào?
HS: Xen 1 điểm I nào đó ta được 3
−−→
MB +
−−→
MC = 4
−−→
MI + (3
−→
IB +
−−→
IC)
Suy ra chỉ cần chọn điểm I sao cho 3
−→
IB +
−→
IC =
−→
0 , hay I là điểm chia BC theo
tỉ lệ k = −1
3
.
Từ đó tương tự câu trên suy ra lời giải.
Đến câu 3, học sinh đều lúng túng vì hình thức của đẳng thức đã xa với quỹ tích cơ
bản, khi đó giáo viên có thể tiếp tục gợi mở như sau:
GV: Các em hãy nhận dạng đặc điểm các biểu thức véctơ trong các quỹ tích cơ bản.
Học sinh có nhiều ý kiến khác nhau và phân tán, sau đó giáo viên cần nhấn mạnh:
Đặc điểm lớn nhất của biểu thức véctơ trong các quỹ tích cơ bản là số lần xuất hiện M
trong biểu thức đó.
GV: Vậy ta cần làm gì?
HS: Cần “cô lập” điểmM .
Và khi đó học sinh biết xen 1 điểm I nào đó vào và sau khi “cô lập” nó có dạng:−−→
MI2 + 2
−−→
MI(3
−→
IA−−→IB −−→IC) + 3−→IA2 −−→IB2 −−→IC2 = 0
GV: Vậy ta chọn điểm I như thế nào? Vì sao?
HS: Ta chọn 3
−→
IA−−→IB −−→IC = 0 vì không thể chọnM ≡ I
Sau đó yêu cầu học sinh xác định vị trí cụ thể của điểm I là điểm IA = 2AK; Với
K là trung điểm BC. Và học sinh dễ dàng hoàn thiện các yếu tố còn lại và tìm ra tập điểm
là một đường tròn tâm I bán kính R =
√−→
IB2 +
−→
IC2 − 3−→IA2.
Với câu 4, học sinh nhận thấy rất gần với quỹ tích cơ bản nhưng không biết cách
đưa về quỹ tích cơ bản, khi đó giáo viên gợi ý:
GV: Nguyên nhân vì sao chưa áp dụng được quỹ tích cơ bản?
HS: Do có a2 ở vế phải.
GV: Vậy liệu có thể có cách nào để giải quyết? (học sinh thường không trả lời được
câu hỏi này)
GV: Các em có thể tách vế trái ra một số sao cho đúng bằng a2 , tách như thế nào?
Khi đó học sinh tìm ra cách xen điểm I vào như sau:−−→
MA.
−−→
BC = a2
⇔ (−−→MI +−→IA)−−→BC = a2
⇔ −−→MI.−−→BC +−→IC.−−→BC = a2
Suy ra cần xác định I sao cho
−→
IA.
−−→
BC = a2
159
Đỗ Thị Hồng Minh
GV: Cách chọn dễ nhất để có thể tính tích vô hướng là gì?
HS: Chọn sao cho
−→
IA cùng phương
−−→
BC, hoặc
−→
IA vuông góc
−−→
BC.
Sau đó giáo viên cùng học sinh tìm điểm I bằng cách:
Giả sử đã có
−→
IA cùng phương
−−→
BC mà
−→
IA.
−−→
BC = a2, suy ra
−→
IA cùng chiều
−−→
BC và
IA =
a2
BC
= a
Suy ra I là đỉnh thứ 4 của hình bình hành ACBI .
Hoạt động 3: (Trình bày giải pháp)
Sau khi giúp học sinh trình bày lời giải bài toán sao cho chuẩn và ngắn gọn, giáo
viên yêu cầu học sinh nhìn lại và nêu phương pháp chung để giải quyết các bài toán tìm
tập hợp điểm, cuối cùng chốt lại các bước cơ bản để giải bài toán tìm tập hợp điểm thỏa
mãn một đẳng thức véctơ như sau:
1. Phải tìm cách “cô lập” điểmM bằng cách dùng một hệ thức quen thuộc hoặc bằng
cách xen một điểm I nào đó. Sau đó tìm vị trí của I làm cho biểu thức véctơ đạt yêu
cầu gần nhất với quỹ tích cơ bản.
2. Xác định rõ vị trí của điểm đó và tính được các biểu thức còn lại đưa đẳng thức về
dạng cơ bản.
3. Trình bày lời giải ngắn gọn và chính xác.
Hoạt động 4: (Nghiên cứu sâu giải pháp): Luyện tập và thực hành phương pháp giải
bài toán tìm tập hợp điểm thỏa mãn 1 đẳng thức véctơ.
Giáo viên có thể sử dụng một số bài có chứa thêm tham số như sau:
Bài 1: Cho tam giác ABC và k ∈ R, tìm tập hợp điểmM thỏa mãn:
a)
−−→
MA.
−−→
BC = k
b)
−−→
MA2 + 2
−−→
MB2 = k
c) 2
−−→
MA2 − 3−−→MB2 = k
Bài 2: Cho tam giác ABC đều cạnh a, tìm tập hợp điểmM thỏa mãn:
a)
−−→
MB.
−−→
MC =
−−→
MA2 +
a2
2
b)
−−→
MA.
−−→
MB +
−−→
MB.
−−→
MC +
−−→
MC.
−−→
MA =
5a2
2
c)
−−→
MA2 +
−−→
MB2 +
−−→
MC2 = k
d) |−−→MA| = |2−−→MB|
Qua một loạt những hoạt động nhận thức của giáo viên đưa ra nhằm hình thành ở
học sinh cách giải bài toán dạng tìm tập hợp điểm thỏa mãn một đẳng thức véctơ theo
phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, hầu hết các em đều rất hứng thú
trong học tập và không còn “sợ” khi gặp bài toán dạng này.
160
Vận dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề trong dạng bài tìm tập hợp điểm...
3. Kết luận
So với cách dạy từng vấn đề đơn lẻ, nếu giáo viên dạy cho học sinh vấn đề tổng quát
như vậy thì học sinh lại dễ tiếp thu và hứng thú khi học Toán, nhất là các em học sinh khá.
Có thể nói, với phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề áp dụng trong bài dạy
tìm tập hợp điểm thỏa mãn một đẳng thức véctơ, đã giúp học sinh hứng thú hơn trong học
tập và xóa bớt nỗi lo sợ của các em khi gặp một dạng toán khó.
Dạy học theo phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề là quá trình dạy cho học
sinh không những nắm được những tri thức cần thiết của môn học, mà cao hơn nữa là biết
vận dụng những tri thức đó để giải quyết các vấn đề và tình huống gặp phải trong học tập
và trong cuộc sống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Bá Kim, 2007. Phương pháp dạy học môn Toán. Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
[2] Bùi Văn Nghị, 2008. Phương pháp dạy học những nội dung cụ thể môn Toán, Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
ABSTRACT
The application of the ‘problem posing and solving method’ in teaching “Finding
the set of points that satisfy the vector equation" of a grade 10 math program
Using the ‘problem posing and proplem solving’ teaching method means that
the teachers ask questions or give problems, students discuss the problem, and then
produce an answer within the structure provided by the teacher. Thinking, discussing
and formulating answers do stimulate creativity , independent thinking in students, and
gradually acquiring the ability to form new learning styles and work. Teaching which
follows the “problem posing and solving” method is the process of teaching students
not only how to grasp the necessary information on the subject but also to apply that
knowledge to solve problems and situations encountered in school and in life.
161