Vận dụng sáng tạo chiến lược lịch sự trong giao tiếp bằng tiếng Việt

1. ĐẶT VẤN ĐẾ (*) Xã hội tồn tại là nhờ giữa các thành viên có các mối quan hệ hiện hữu (quan hệ huyết thống, văn hoá, kinh tế ). Những mối quan hệ này đều được hiện thực hoá thông qua giao tiếp. Giao tiếp được thực hiện bằng nhiều phương tiện khác nhau, nhưng phương tiện quan trọng nhất là ngôn ngữ. Làm sao để giao tiếp ngôn ngữ đạt hiệu quả cao đến nay vẫn là vấn đề cần được tiếp tục bàn luận. Bài viết này chỉ đề cập đến vấn đề vận dụng chiến lược lịch sự để tăng cường hiệu quả cho việc giao tiếp trực tiếp bằng tiếng Việt.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 250 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vận dụng sáng tạo chiến lược lịch sự trong giao tiếp bằng tiếng Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 8 - Thaùng 2/2012 VẬN DỤNG SÁNG TẠO CHIẾN LƯỢC LỊCH SỰ TRONG GIAO TIẾP BẰNG TIẾNG VIỆT HOÀNG THUÝ HÀ (*) TÓM TẮT Cuộc sống có vô vàn tình huống giao tiếp hoàn toàn khác nhau. Để thành công ở phương diện giao tiếp bằng tiếng Việt, vấn đề đặt ra ở bài viết này là chúng ta phải biết cách vận dụng sáng tạo chiến lược lịch sự. ABSTRACT There are countless situations in the life from which they are entirely different. To be successful in the aspect of communication in Vietnamese, the matter posed in this paper is that we must know how to use polite strategies creatively. 1. ĐẶT VẤN ĐẾ (*) Xã hội tồn tại là nhờ giữa các thành viên có các mối quan hệ hiện hữu (quan hệ huyết thống, văn hoá, kinh tế). Những mối quan hệ này đều được hiện thực hoá thông qua giao tiếp. Giao tiếp được thực hiện bằng nhiều phương tiện khác nhau, nhưng phương tiện quan trọng nhất là ngôn ngữ. Làm sao để giao tiếp ngôn ngữ đạt hiệu quả cao đến nay vẫn là vấn đề cần được tiếp tục bàn luận. Bài viết này chỉ đề cập đến vấn đề vận dụng chiến lược lịch sự để tăng cường hiệu quả cho việc giao tiếp trực tiếp bằng tiếng Việt. 2. NỘI DUNG 2.1. Lịch sự là một chiến lược giao tiếp hiệu quả nhất trong các chiến lược giao tiếp của xã hội văn minh – hiện đại Trong xã hội văn minh – hiện đại, con người sử dụng rất nhiều chiến lược giao tiếp như: “gió chiều nào che chiều ấy”, “vu oan giá họa”, nói xấu sau lưng, dựng chuyện, “thùng rỗng kêu to”, xu nịnh, vuốt (*) TS, Trường Đại học Sài Gòn đuôi cấp trên, khen không thật lòng Những chiến lược giao tiếp ấy có thể cho hiệu quả nhất thời nhưng sẽ không xây dựng được mối quan hệ bền lâu, vì chúng thiếu tính chân thật, phản văn hoá, gây hại đến người khác nên sớm muộn gì cũng sẽ bị công chúng nhận ra và tẩy chay. Chiến lược lịch sự là chiến lược giao tiếp hiệu quả nhất trong các các chiến lược giao tiếp của xã hội văn minh. Bởi vì con người luôn sống trong các quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp. Các quan hệ này tạo ra môi trường sống thường xuyên của mỗi cá nhân và ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách và xu hướng hành động của họ. Chính cuộc sống đòi hỏi mỗi người phải có cách xử thế đúng đắn, thể hiện qua phép lịch sự trong quá trình tiếp xúc với các đối tác khác nhau, ở những địa điểm khác nhau. Đồng thời, chính con người lại chủ động xây dựng những mối quan hệ đó một cách tốt nhất cho bản thân, cho cuộc sống, góp phần tạo nên một xã hội ổn định, hài hoà, tiến bộ và văn minh hơn. Nói cách khác, trong quan hệ xã hội nói chung, lịch sự là nhân tố không thể thiếu vừa để duy trì trật VẬN DỤNG SÁNG TẠO CHIẾN LƯỢC LỊCH SỰ TRONG GIAO TIẾP BẰNG TIẾNG VIỆT tự công cộng, vừa để thúc đẩy quan hệ tương tác xã hội. Lịch sự là hiện tượng phổ quát nhưng hình thức, phương thức biểu hiện lại mang đậm màu sắc dân tộc, địa lí, lãnh thổ Lịch sự, như cách chúng ta vẫn thường hiểu, dùng để nói về hành vi ứng xử của con người phù hợp với phép tắc, chuẩn mực mà xã hội thừa nhận. Buộc phải lịch sự với người khác, làm cho họ hài lòng, yêu quý mình nhưng không có nghĩa là thay đổi quan điểm, đi ngược với mong muốn của người phát ngôn. Ngược lại, một cuộc giao tiếp thành công là cuộc giao tiếp vừa được lòng người vừa toại ý mình. Vì vậy, khái niệm lịch sự mà chúng tôi quan niệm ở đây là những chiến lược giao tiếp của cá nhân, nhưng những chiến lược này chỉ được coi là lịch sự khi nó tuân thủ những chuẩn mực xã hội. 2.2. Các nguyên tắc của chiến lược lịch sự trong giao tiếp bằng tiếng Việt Trong các mối quan hệ giao tiếp giữa người với người, ngôn ngữ là một trong những phương tiện để trao đổi thông tin, biểu lộ suy nghĩ, ý định hoặc trạng thái của mỗi người và là phương tiện quan trọng bậc nhất đo lường tính “lịch sự”, tính “bất lịch sự” của mỗi người. Lịch sự trong giao tiếp bằng ngôn từ thể hiện rõ nhất trong các cuộc thoại - quy ước (formal). Hội thoại là một sự kiện nói diễn ra thường xuyên trong sinh hoạt đời thường của con người. Muốn cho một cuộc thoại thành công, mỗi bên hội thoại cần tuân thủ những nguyên tắc nhất định trong hội thoại. Nhiều nhà nghiên cứu về ngữ dụng học cho rằng những nguyên tắc như vậy là nguyên tắc cộng tác (prinaple) và nguyên tắc lịch sự (principle of politeness). Những nguyên tắc này, theo Nguyễn Đức Dân “chi phối, tác động mạnh mẽ tới quá trình hội thoại, cho phép giải thích những hàm ý ở mỗi lượt lời, những hình thức ngôn từ và cấu trúc phát ngôn trong những tình huống giao tiếp cụ thể” [1, tr.12]. Tính lịch sự trong giao tiếp bằng ngôn ngữ có được là nhờ vào việc sử dụng các phương tiện, biện pháp xác định với mục đích điều chỉnh, gia tăng giá trị nhân văn của các tham thể, đặc biệt là trong giao tiếp đối thoại. Lịch sự trong giao tiếp bằng ngôn ngữ là sự tuân thủ những chuẩn mực ngôn ngữ của xã hội. Vì vậy, ứng xử lịch sự không hoàn toàn là sự sử dụng các chiến lược giao tiếp của cá nhân mà trực tiếp bị tác động bởi các chuẩn mực xã hội. Việc lựa chọn sai các phương tiện lịch sự sẽ phá vỡ mối quan hệ giữa người nói và người nghe, sẽ nhận được sự đánh giá tiêu cực từ xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu Âu – Mĩ đã xây dựng nên những quan điểm tương đối hoàn chỉnh về lịch sự, nâng những vấn đề thực tiễn trong giao tiếp lịch sự lên thành “lí thuyết lịch sự” (theory of politeness). Trong công trình của Grice, khi nêu các phương châm hội thoại về lượng (quantity), chất (quality), cần yếu (relevance) và cách thức (manner), tác giả đã đề cập đến phương châm lịch sự và cho rằng phương châm này cũng tạo ra những hàm ý phi quy ước (nonconventional implicatures) (Grice, 1972). Một số tác giả như R. Lakoff (1974), G. Leech (1983),... cũng đã nghiên cứu phương châm lịch sự với tư cách là một phương châm hội thoại và tái khẳng định rằng sự vi phạm phương châm này cũng tạo ra các hàm ý. Theo R. Lakoff, lịch sự là tôn trọng nhau trong tương tác hội thoại. Càng tuân thủ nguyên lí lịch sự thì nguy cơ đối mặt với những trở ngại trong giao tiếp giữa các cá nhân càng được giảm thiểu. Vì vậy cần thực hiện HOÀNG THÚY HÀ những nguyên tắc sau: i) không áp đặt (trong giao tiếp mang tính nghi thức); ii) để ngỏ sự lựa chọn (trong giao tiếp thông thường) và iii) làm cho người đối thoại cảm thấy thoải mái (trong trò chuyện thân mật). Theo G. Leech, nguyên lí lịch sự hoạt động dựa trên khái niệm “tổn thất” và “lợi ích” mà nguyên tắc của nó là giảm thiểu tối đa những lối nói bất lịch sự và tăng cường tối đa những lối nói lịch sự. Từ nguyên tắc này, tác giả đề ra những phương châm trong giao tiếp lịch sự: khéo léo, hào hiệp, tán đồng, khiêm tốn, thiện cảm. P. Brown và S. Levinson (1883) đã phát triển và trình bày một cách tương đối đầy đủ những phương diện căn bản của “thể diện”. Đó là thể diện dương tính (positive face) và thể diện âm tính (negative face) hay còn gọi là thể diện tích cực và thể diện tiêu cực. Thể diện dương tính là những điều mà mỗi người muốn mình được khẳng định, được những người khác tôn trọng. Nói cách khác, thể diện dương tính được thể hiện ở chỗ mọi người luôn luôn hoặc có khuynh hướng tự đánh giá cao mình. Thể diện âm tính là những điều mà mỗi người muốn mình được “coi là người lớn” (competent adult member) không bị ai cản trở trong hành động. Nói cách khác, mỗi người có một “không gian cá nhân” mà những người khác không được xâm phạm. Để chỉ “thể diện âm tính”, người ta còn dùng thuật ngữ “lãnh địa”. Còn thuật ngữ “thể diện” thì dùng để chỉ thể diện dương tính. P. Brown và S. Levinson đã tổng kết những chiến lược dùng để giữ thể diện nhằm đạt được hai loại lịch sự trong giao tiếp, đó là lịch sự dương tính (possitive politeness) nhằm bù đắp cho thể diện dương tính của người nghe và lịch sự âm tính (negative politenness) nhằm bù đắp cho thể diện âm tính của người nghe. Việc nghiên cứu về tính lịch sự trong tiếng Việt ở một chừng mực cụ thể đã được đề cập đến qua một số công trình nghiên cứu các nhà nghiên cứu Việt Nam. Đặc biệt, trong một công trình nghiên cứu về chiến lược lịch sự, Nguyễn Văn Hiệp dựa trên những tổng kết về chiến lược lịch sự của hai tác giả P. Brown và S. Levinson, đã đưa ra 17 nguyên tắc lịch sự. Tác giả gọi là 17 “chiến lược lịch sự” (xem [2]). Thực tế là trong một cộng đồng ngôn ngữ, có những người hoặc những nhóm người thích dùng cách nói bóng gió xa xôi, cũng có người, có nhóm người thích cách nói thẳng, nói trực tiếp. Người Việt Nam có một quy tắc về sự ứng xử lịch sự giữa những người có quan hệ thân hữu. Đó là tình thân được thể hiện qua các từ xưng hô, qua các câu thề, qua cách nói suồng sã,... Theo phép lịch sự thân hữu thì lối nói gián tiếp và các biểu thức rào đón không được ưa dùng. Vì vậy, chúng tôi bổ sung thêm một nguyên tắc nữa là: Nói chân thật. Siêu chiến lược lịch sự trong giao tiếp bằng tiếng Việt được cụ thể hoá bằng 18 nguyên tắc gồm: 9 nguyên tắc thuộc chiến lược lịch sự dương tính và 9 nguyên tắc thuộc chiến lược lịch sự âm tính. Chiến lược lịch sự dương tính: Phép lịch sự dương tính hướng vào thể diện dương tính của người nhận. Lịch sự dương tính được sử dụng nhằm thực hiện những hành động tôn vinh thể diện (face- flattering), làm tăng một trong hai thể diện của người nhận như lời khen, lời chào mừng, lời mời, với cách xưng hô thân mật, cách nói suồng sã,... và bằng cách như vậy, người nói sẽ tạo lập được quan hệ thân hữu với người nhận. Lịch sự dương tính có ba biểu hiện nổi trội như sau: (i) có cái chung giữa các tham thể tương tác; (ii) người nói VẬN DỤNG SÁNG TẠO CHIẾN LƯỢC LỊCH SỰ TRONG GIAO TIẾP BẰNG TIẾNG VIỆT và người nghe đều có tinh thần hợp tác hội thoại; (iii) phát ngôn được thực hiện nhằm thoả mãn nhu cầu nào đó của người nghe. (1) Quan tâm chú ý đến nhu cầu, mong muốn, hứng thú của người nghe, tán dương người nghe. (2) Cường điệu, phóng đại sự đồng thuận, sự thông cảm, sự quan tâm đến người nghe. (3) Dùng những từ ngữ chứng tỏ người nói cùng nhóm, cùng hội cùng thuyền với người nghe. (4) Tìm kiếm sự đồng tình từ phía người nghe. (5) Tránh sự bất đồng với người nghe. (6) Nói đùa để làm vừa lòng người nghe và tỏ ra hợp tác. (7) Tỏ ra quan tâm đến mong muốn của người nghe. (8) Gộp người nói và người nghe vào hành động mang tính hợp tác. (9) Tỏ ra lạc quan. Chiến lược lịch sự âm tính: Phép lịch sự âm tính hướng vào thể diện âm tính, vào lãnh địa của người tiếp nhận. “Không áp đặt” ở đây là không áp đặt đối với người nghe, không cản trở người nghe hành động theo ý muốn của mình. Quy tắc này đòi hỏi người nói phải tránh né những vấn đề thuộc cái riêng của cá nhân như đời sống gia đình, thói quen, thu nhập, ... (10) Dùng các lối nói gián tiếp có tính quy ước. (11) Rào đón (hedge). (12) Không ép buộc người nghe. (13) Tỏ ra bi quan (Thể hiện sự buồn bã thất vọng của mình để tác động vào tình cảm của người nghe, để người nghe thấy động lòng mà tự nguyện hành động theo cảm xúc của mình) (14) Giảm thiểu thiệt hại của người nghe. (15) Tỏ ra đề cao, quý trọng người nghe. (16) Biết xin lỗi. (17) Dùng cách nói bóng gió, xa xôi, tế nhị. (18) Nói chân thật Việc đưa ra 18 nguyên tắc trong giao tiếp bằng tiếng Việt trên là rất cần thiết, bởi vì các hành vi tại lời luôn có nguy cơ bị đe dọa thể diện. Để giữ thể diện cho cả người nhận và người nói, người nói luôn phải tìm cách làm dịu nguy cơ đe dọa thể diện bằng các hành vi giữ thể diện. Trong tương tác, người nói phải tính toán các mức độ đe dọa thể diện của hành động tại lời được dự định thực hiện để tìm cách làm giảm nhẹ mức độ đe dọa thể diện. 2.3. Đề xuất một số cách thức vận dụng chiến lược giao tiếp lịch sự Mặc dù chúng tôi đã đưa ra 18 nguyên tắc của chiến lược giao tiếp lịch sự, nhưng nếu không có cách thức vận dụng thì hiệu quả giao tiếp vẫn không cao, thậm chí còn phản tác dụng khi vận dụng không phù hợp. Chúng tôi xin đưa ra ba giải pháp như sau: Thứ nhất: phải dựa vào từng hoàn cảnh, từng đối tượng cụ thể để lựa chọn và vận dụng nguyên tắc phù hợp. Chẳng hạn, vận dụng nguyên tắc (9) “tỏ ra lạc quan” khi người nghe đang ở trong tâm trạng bi quan, chán nản, thất vọng vì chuyện gì đó. Ví dụ: “Mẹ anh sẽ sớm bình phục!”. Vận dụng, nguyên tắc (13) “tỏ ra bi quan” khi người nói gặp một chuyện hệ trọng, cần sự cảm thông, giúp đỡ của người nghe: “Tôi sẽ chết mất nếu mẹ tôi biết chuyện! ”. Thứ hai: nguyên tắc (10) “dùng lối nói gián tiếp có tính chất quy ước” là một nguyên tắc cần thiết có thể vận dụng ở nhiều trường hợp để thay thế những hành động có nguy cơ làm ảnh hưởng đến thể diện của người nói và người nghe, khiến HOÀNG THÚY HÀ cho lời nói của mình vừa sâu sắc, thâm thúy lại vừa rất tinh tế, tế nhị. Ví dụ: Đối với trường hợp một học sinh đi học trễ giờ, để thay thế cho những phát ngôn ở lời thể hiện thái độ trách móc, tức giận, nặng nề, giáo viên có thể sử dụng lối nói gián tiếp “Em có biết bây giờ là mấy giờ rồi không?”. Hay để thay thế cho mệnh lệnh trực tiếp là: “Các con vào dọn ăn ngay đi!”, người mẹ sẽ nói: “Cơm chín rồi!” Thứ ba: trong đại đa số trường hợp, nếu phối hợp nguyên tắc (10) với một số nguyên tắc khác nhau, trong những tình huống cụ thể, các cuộc giao tiếp sẽ đạt đến mức hoàn hảo. Vì vậy, theo chúng tôi, trong giao tiếp bằng tiếng Việt đây là một cách thức mang tính đặc thù và rất quan trọng. Xin được chứng minh bằng một số cách thức cụ thể sau: * Nguyên tắc (10)+13+(12): được vận dụng để thay thế cho một số hành động khuyến lệnh, là loại hành vi ngôn ngữ được thực hiện để điều chỉnh người nghe hành động theo ý muốn của chủ thể phát ngôn. Hành động khuyến lệnh thường đem lại tác động tiêu cực tới người nghe tức là người nghe bị thiệt, và tác động tích cực tới người nói, tức người nói được lợi. Chẳng hạn một phát ngôn như: “ Kiểu gì cậu cũng phải giúp mình việc này!” là vi phạm phương châm khéo léo vì nó đem lợi cho người nói và gây thiệt cho người nghe. Cũng nội dung mệnh đề đó được truyền báo bằng một hành vi ngôn ngữ gián tiếp, kết hợp với thái độ tỏ ra bi quan và không ép buộc người nghe: “Chuyện này làm mình quá tuyệt vọng đành tìm đến cậu; nếu làm khó cho cậu, thì cứ xem như là cậu chưa nghe mình nói gì nhé!”. Sự kết hợp này sẽ khiến cho người nghe cảm thấy xúc động và tự nguyện giúp đỡ người nói. * Nguyên tắc (10)+(1): được vận dụng để thay thế hành động chê bai, là hành động vi phạm ý thức tự tôn của người nghe. Tâm lí chung không ai thích mình bị chê bai. Lời chê sẽ làm cho con người mất tự tin. Vì vậy, khi bị chê, người ta sẽ khó chịu, ác cảm với người chê. Có một nghịch lí là mặc dù không ai thích mình bị phê bình, nhưng ai cũng muốn được người khác giúp mình nhận ra và khắc phục những sai lầm. Ai cũng thích xung quanh mình có những người bạn chân thành thật lòng với mình, sẵn sàng góp ý để giúp mình nhận ra những gì bản thân còn thiếu sót, còn chưa hoàn hảo. Các chuyên gia tâm lí vẫn thường khuyên chúng ta hãy cố gắng làm giảm đi những lời chê bai người khác và tăng lên những lời khen ngợi họ (phương châm tán đồng), vì như vậy, các bên giao tiếp sẽ giữ được hòa khí; mỗi ngày nên dành tặng ít nhất một lời khen cho người mà chúng ta gặp Vì lời khen là liệu pháp tinh thần nhằm khích lệ, động viên, làm cho con người lạc quan phấn chấn. Nhưng vấn đề là khen như thế nào cho đúng, cho thật? Vì nếu khen sai thì ngược lại, sẽ gây tác hại, nguy hiểm vô cùng. Nó làm cho người nhận lời khen ảo tưởng, hoặc đánh mất niềm tin đối với người khen và làm cho những người xung quanh bạn cười chê bạn là giả dối, là “nịnh thần”. Vấn đề đặt ra là khen thế nào cho đúng? Và những trường hợp người nghe muốn chúng ta góp ý một cách chân tình thì phải làm sao để nói thật mà lại không “mất lòng”? Những trường hợp này theo chúng tôi là nên vận dụng nguyên tắc (10) “dùng lối nói gián tiếp” kết hợp với nguyên tắc (1) “quan tâm chú ý đến nhu cầu, mong muốn, hứng thú của người nghe, tán dương người nghe”. Ví dụ: Tình huống 1: A và B là nữ đồng VẬN DỤNG SÁNG TẠO CHIẾN LƯỢC LỊCH SỰ TRONG GIAO TIẾP BẰNG TIẾNG VIỆT nghiệp của nhau. Sáng nay, A mặc một chiếc áo mới tới công sở. A hỏi B: - Cậu thấy tớ mặc áo này đẹp không? B trả lời: - Cậu mặc cái áo này xấu quá! Hậu quả: B cảm thấy rất khó chịu, có thể tự nhủ thầm:“Mình thấy được đấy chứ, chắc là nó ghen tị với mình đấy thôi!”. B cảm thấy không thoải mái, và ngày hôm đó làm việc kém hiệu quả! Thay thế: trước hết bạn hãy ngắm kĩ và tìm ra nguyên nhân mà cô A mặc cái áo ấy không đẹp. Nếu do lỗi phối kết, chẳng hạn không hợp màu sắc với cái quần hoặc váy mà A đang mặc, thì bạn có thể nói rằng: - Nó sẽ rất tuyệt nếu bạn mặc cái quần (hoặc váy) màu trắng (hoặc đen)! Nếu quả thực nó không có điểm gì để khắc phục thì bạn hãy tìm một cái áo nào bạn ấy mặc đẹp nhất mà khen để né tránh việc chê cái áo hiện tại, chẳng hạn: - Mình thấy kiểu áo mà bạn mặc hôm thứ hai rất hợp với dáng người và tính cách của bạn! Tình huống 2. B là em gái của A, vừa làm một việc gì đó thất bại. A phê bình, chỉ trích B: - Em cẩu thả quá nên mới hỏng việc! Hậu quả: sự thất bại đó ám ảnh nặng nề với B, B mất tự tin. Thay thế: động viên khích lệ B, đồng thời giúp B nhận ra thiếu sót cần khắc phục: - Lần sau chỉ cần em cẩn thận một tí là chắc chắn mọi việc tốt đẹp! * Nguyên tắc (10)+(16)+(14): được thay thế cho hành động từ chối là hành động mà người nghe không mong đợi nhất, bởi nó sẽ làm cho người nghe thất vọng. Nói lời từ chối, khi phải từ chối cũng thật không dễ. Nhưng trong thực tế, chúng ta không phải khi nào cũng có thể gật đầu đồng ý được. Nếu chúng ta nhận lời một việc gì đó mà chúng ta không thể thực hiện thì lại càng tai hại hơn gấp trăm gấp nghìn lần, bởi chúng ta sẽ trở thành những kẻ hứa hão hứa huyền, hoặc là những kẻ “ba hoa thiên địa” “ba voi không được một bát nước xáo” trong mắt người nghe. Vì vậy, để tránh sự tổn thương cho người nghe, theo chúng tôi là nên vận dụng nguyên tắc (10) “dùng lối nói gián tiếp” kết hợp với nguyên tắc (16) “biết xin lỗi” và (14) “giảm thiểu thiệt hại của người nghe”. Chẳng hạn, thay vì từ chối thẳng thừng: “Tôi không đi uống cà phê với anh đâu” chúng ta hãy nói rằng: “Xin lỗi anh, vì em quá bận; hẹn anh dịp khác nhé!” * Nguyên tắc (10)+(6)+(12): Được sử dụng để thay thế cho tất cả các hành động gây sự khó chịu, căng thẳng, nặng nề đối với người nghe. Ví dụ, thay vì trách móc: “Mọi người ồn ào quá!” hay hành động khuyến lệnh: “Mọi người hãy giữ yên lặng!” thì người nói có thể vận dụng lối nói gián tiếp, hài hước, nhẹ nhàng, vui vẻ, giúp người nghe tự nhận ra và tự thay đổi hành vi thiếu đúng đắn của mình: “Các cậu có muốn tớ mua thêm cho các cậu một con vịt nữa không?” (vận dụng thành ngữ “Ba mụ (người) đàn bà với con vịt nữa là thành cái chợ!”, mục đích là giúp mọi người nhận ra rằng ở đây và thời điểm này không nên “họp chợ”, không nên làm ồn. 3. KẾT LUẬN Lịch sự là chiến lược giao tiếp của cá nhân tuân thủ theo những chuẩn mực xã hội, là chiến lược giao tiếp hiệu quả nhất trong các chiến lược giao tiếp của xã hội văn minh – hiện đại. Trong giao tiếp tiếng Việt, chiến lược lịch sự được cụ thể hoá thành 18 nguyên tắc: gồm 9 nguyên tắc lịch sự dương tính và 9 nguyên tắc lịch sự âm tính. Cách thức sử dụng chiến lược giao tiếp đòi hỏi sự sáng tạo, uyển chuyển, linh hoạt HOÀNG THÚY HÀ trong từng hoàn cảnh, từng đối tượng cụ thể. Đặc biệt, nguyên tắc (10) “dùng lối nói gián tiếp có tính chất quy ước” là một nguyên tắc khiến cho lời nói vừa sâu sắc, thâm thúy lại vừa rất tinh tế