Tục ngữ có câu “Dao sắc không bằng chắc kê” tuy câu tục 
ngữ này mới xuất hiện sau này,
nhưng tinh thần của ý niệm ấy hẳn đã ra đời từ thời đại đồ đá 
cũ, khi có hiện vật chày xát bàn
nghiền hình 3 góc ra đời.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                
10 trang | 
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Văn hóa Nõ Nường : Chày xát bàn nghiền nhận thức về cặp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Văn hóa Nõ Nường : 
Chày xát bàn nghiền 
nhận thức về cặp 
Trích cuốn “Văn hóa Nõ Nường” – Dương Đình Minh Sơn 
Tục ngữ có câu “Dao sắc không bằng chắc kê” tuy câu tục 
ngữ này mới xuất hiện sau này, 
nhưng tinh thần của ý niệm ấy hẳn đã ra đời từ thời đại đồ đá 
cũ, khi có hiện vật chày xát bàn 
nghiền hình 3 góc ra đời. 
Tại viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam Hà Nội, trong quầy trưng 
bày hiện vật thời đại đồ đá, 
chúng ta thấy bên cạnh những thỏi đá cầm tay thô ráp, thì 
cũng có những tảng đá vỡ nhỏ do 
người đương thời đập vỡ từ tảng đá lớn ra để làm bàn nghiền 
mặt hơi khuyết sâu, trơn bóng. 
Trong số đó có hiện vật bàn nghiền hình 3 góc được trau 
chuốt, mài nhẵn cả trong và ngoài rất 
đẹp. Hẳn đây là loại hiện vật dùng vào việc tín ngưỡng, thờ 
cúng của các pháp sư. Hiện vật bàn 
nghiền hình 3 góc này tìm thấy ở di chỉ Hòa Bình và di chỉ 
Quỳnh Văn Nghệ An, hiện trưng bày 
tại bảo tàng Việt Nam ở Hà Nội. 
Việc nhận thức tác dụng của hoạt động cặp hẳn là nhờ vào 
những kỳ hoạt động giao phối của 
con người. 
Trong hiện vật công cụ có chiếc “cuốc chim” (hình a) và lưỡi 
cày “cày bướm” (hình b) cho 
nên trong ngôn ngữ của người Kinh có từ “chim” và “bướm”, 
khi gọi bé trai là thằng “cò” (chim) 
và bé gái là cái “hĩm” (bướm) tức là gọi theo đặc điểm sinh 
vật của từng đứa trẻ đó. 
Hình a 
Hình b 
Để thấy rõ hơn về điều này, chúng ta nhìn vào văn hóa Óc Eo 
ở miền Nam có hai hiện vật 
biểu tượng Linga Yoni. Nếu mới nhìn qua ta sẽ cho đó là cái 
chai và cái hộp (hình c) – có nghĩa, 
cái hộp và cái lọ trong dân dụng là phỏng theo hình Linga 
Yoni. 
Hình c 
Qua những hình ảnh về thỏi đá cầm tay, bàn nghiền, lưỡi cày 
và hộp đựng (Óc Eo) v.v, chúng 
tôi cho rằng, những công cụ cầm tay hoặc những đồ dùng của 
nhà bếp để nấu nướng như nồi, 
xoong, xanh, chảo và xa hơn nữa là bát đũa, môi, thìahoặc 
đồ đựng gia dụng như thúng, mủng, 
dần, sàng, nia mẹt v.v, đều bắt nguồn từ hình mẫu Nõ 
Nường; mà thuật tra cán là dựa trên 
nguyên lý lắp khít nhau của Nõ Nường. Hình thái phát triển 
dựa trên mẫu hình của sinh thực phải 
chăng là một tiêu chí của nhân loại. 
Chày cối, dùi, mẹt là hình ảnh của vật linh Nõ Nường cho 
nên ngày trước, khi có nhật thực, 
nguyệt thực người ta lấy dùi gõ vào mẹt để đuổi gấu ăn trăng 
(chi tiết sẽ được nói đến trong bài 
viết “Lễ hội Nõ Nường – Trò Trám” _kỳ 10) 
Khi người ta lội xuống bùn đặc, rồi nhấc chân lên, để lại hình 
bàn chân trong đó. Hình ảnh ấy 
gợi cho con người tạo ra lưỡi xéo đất (hình d, e). Đó là nguồn 
gốc của các công cụ như mai, xẻng 
v.v. 
Hình d 
Rùi xéo Đông Sơn. Ảnh d của Lê Trọng Khánh 
Sự hình thành và phát triển chữ Việt Cổ, viện 
Văn Hóa, tháng 06-1985 
 Hình e 
Ảnh e của T.L Tạp chí Di sản văn hóa, số 10/2005 
Như vậy con người là nguyên mẫu để tạo nên những hình 
thái công cụ phục vụ cho đời sống của 
con người, như đã nói trên. Trong số đó bàn nghiền hình 3 
góc là hình ảnh biểu tượng hiện vật 
sinh thực của phụ nữ. Tinh thần đó còn truyền nối đến ngày 
nay trong câu ngạn ngữ: “Ngồi lá 
vông chổng mông lá trốc” (trầu). Hoặc thơ Hồ Xuân Hương 
có câu: 
Xòe ra ba góc da còn thiếu 
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.