Ngày nay, khi nhìn thẳng vào tầng ngôn ngữ hiện đại của mỗi
dân tộc, người ta khó mà biết được trong đó thuật ngữ nào
xuất hiện đầu tiên. Nhưng với người Thái ở Tây Bắc, thông
qua việc nghiên cứu nguồn gốc của âm nhạc dân gian để truy
tìm, chúng tôi thấy ngôn ngữ từ xuất hiện đầu tiên trong kho
tàng ngôn ngữ của họ là thuật ngữ Po Me. Trong ý nhiệm của
họ Po là con đực có cái “núm” lòi ra, Me là con cái có cái
“lỗ” lõm vào. Khi hai vật đó “lắp khít” nhau như đôi cúc bấm
thì gọi là Po Me.
11 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1672 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Văn hóa Nõ Nường : Po me của người Thái tạo ra ngôn ngữ của họ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Văn hóa Nõ Nường :
Po me của người Thái tạo
ra ngôn ngữ của họ
Trích cuốn “Văn hóa Nõ Nường” – Dương Đình Minh Sơn
Ngày nay, khi nhìn thẳng vào tầng ngôn ngữ hiện đại của mỗi
dân tộc, người ta khó mà biết được trong đó thuật ngữ nào
xuất hiện đầu tiên. Nhưng với người Thái ở Tây Bắc, thông
qua việc nghiên cứu nguồn gốc của âm nhạc dân gian để truy
tìm, chúng tôi thấy ngôn ngữ từ xuất hiện đầu tiên trong kho
tàng ngôn ngữ của họ là thuật ngữ Po Me. Trong ý nhiệm của
họ Po là con đực có cái “núm” lòi ra, Me là con cái có cái
“lỗ” lõm vào. Khi hai vật đó “lắp khít” nhau như đôi cúc bấm
thì gọi là Po Me.
Một thuật ngữ ra đời dựa vào yếu tố trực quan qua hiện vật
cái “lòi” ra chỗ “lõm” vào và hoạt động của hiện vật là “lắp
khít” nhau, hẳn thuật ngữ ấy đã được ra đời vào thời điểm
chưa có tư duy trừu tượng cao. Ngữ nghĩa của thuật ngữ Po
Me như một tổng thể nguyên hợp Folklore: Po đứng về sinh
vật là con đực, đứng về xã hội loài người là đàn ông, chồng,
cha; Me đứng về sinh vật là con cái, đứng về xã hội loài
người là đàn bà, vợ, mẹ. Po Me còn là ông bà, cậu mợ, anh
chị, chú thím, dì dượng, bá bác v.vvà cao hơn là Tổ tiên
nguồn cội.
Theo S.Pecskin, đó là ngôn ngữ của thời kỳ chưa có đủ từ
theo từ loại. Nhà dân tộc học người Thái Cầm Trọng cho
rằng: “Tín hiệu của thuật ngữ Po Me cho thấy nó ra đời khi
con người chưa thoát khỏi giới động vật” (trao đổi riêng).
Như vậy, ngữ nghĩa ban đầu của thuật ngữ Po Me là gọi theo
tên của bộ phận sinh thực của đàn ông và đàn bà – tức là gọi
theo đặc điểm giới tính của sinh vật, như “cò”, “hĩm” ở người
Việt (Kinh) ngày nay.
Để hiểu sự ra đời của thuật ngữ Po Me, người ta làm thí
nghiệm việc “Po Me” của giới động vật và quan sát thấy sự
hoạt động của chất “kích dục” thật mãnh liệt. Đến kỳ “động
lớn” con cái bỏ ăn, bỏ uống, vật vã cắn nát cỏ cây chuồng
trại, con đực mắt đỏ ngầu, miệng sùi bọt mép chạy thục mạng
như điên. Khi gặp nhau, việc “Po Me” đem lại cho chúng
niềm khoái lạc, đê mê, phút cao điểm chúng rên lên thành
tiếng “ứ” như ai cầm dao kề cổ.
Với con người thời mông muội, cái ăn đã có hoa trái trên cây,
cái uống đã có nước dưới suối, cái ngủ đã có hang động và
cái mặc chưa biết đến. Thời sung mãn trong cái đầu còn non
nớt ấy, duy chỉ “thường trực” một tư tưởng ham muốn
(libiđo) – từng khơi dậy, vẫy gọi, thúc giục.
Đến giai đoạn thế hệ con người bắt đầu xuất hiện trí khôn
Homo sapiens, dây thanh đới trong cổ phát ra được tiếng nói
có ngữ nghĩa, liền tức thì hướng về nơi chứa đựng sự ham
muốn và thực hiện thỏa mãn sự ham muốn ấy cho con người
mà cất tiếng gọi “Po Me” – người Thái.
Trong giai đoạn Po Me con người sống theo bầy đàn, chưa
phân biệt được giống loài, chỉ mới phân biệt được giới tính là
“đực” “cái” – Po Me. Đến thời điểm xuất hiện ngôn từ “ải”
“ý” và “lả”, ở đây “ải” “ý” có nghĩa là trai gái, nam nữ, đàn
ông đàn bà và chồng vợ, còn “lả” là con. Đó là thời điểm
người Thái xác định họ là loài người, cho nên có khái niệm
“chồng vợ” và có từ “lả” là thế hệ con. Suy luận như thế là
hợp lý là loogic về lịch sử nhận thức và phát triển ngôn ngữ
của người Thái ở Tây Bắc.
Như vậy, thuật ngữ Po Me của người Thái ra đời ở đường
giáp ranh: một bên dùng “ngôn ngữ âm thanh” thời mông
muội Homo eretetus, còn một bên xuất hiện người khôn
ngoan Homo sapiens bước vào thời kỳ dùng ngôn ngữ có ngữ
nghĩa.
Về sau, sự tiến bộ dần về nhận thức như trên đã nói thì chức
năng của Po Me được bổ sung thêm: Po Me là ông bà, cậu
mợ, bá bác, chú thím, anh chị v.vvà nâng lên cấp độ khác
là tổ tiên, thần thánh và cội nguồn – Po Me như một tổng thể
nguyên hợp folklore.
Đến nay, thuật ngữ Po Me chủ yếu dùng theo nghĩa bóng
nhưng ý niệm về nghĩa đen vẫn dùng, như khi chỉ về các con
vật, con đực - tô “po”, con cái – tô “me”.
Để có sự so sánh, kiểm chứng nhiều chiều, ta phải tìm hiểu
hai thuật ngữ Nõ Nường sau đây trong ngôn ngữ của người
Việt. “Nõ Nường” là tên gọi của vật linh thờ cúng và chỉ có
một nghĩa đen là “sinh thực”, nhưng khi gọi “Nường” ơi!thì
nghĩa đen ở đây đã chìm đi, mà nặng nề về nghĩa bóng là
người đàn bà, hoặc thuật ngữ “cò hĩm” thì cũng có một nghĩa
đen là bộ phận “sinh thực” và chỉ cụ thể từng con người, như
khi gọi “Cò”, trong đó “Cò” vừa bao trùm cả nghĩa đen và
nghĩa bóng – tức là cả con người thằng “Cò”, hoặc thuật ngữ
Po Me của người Thái, cũng có nghĩa đen và nghĩa bóng.
Ở đây, thuật ngữ Po Me và sự hoạt động theo thiên chức của
hai “hình vật” ấy sẽ là cơ sở cho việc tạo ra những hình thái,
ý thức xã hội ban sơ với hai điểm chính là:
Thứ nhất: Thuật ngữ Po Me là cơ sở của ngôn ngữ và âm
nhạc.
a, Thuật ngữ Po Me với giá trị ngữ nghĩa chuyên hợp của nó
là cơ sở cho việc hình thành “từ loại” theo cấp độ nhận thức
phát triển của xã hội mà thành hệ thống ngôn ngữ trong kho
tàng ngôn ngữ của họ.
b, Hai tiếng gọi Po Me vang lên thân thương, trìu mến đã tạo
ra hai “nốt nhạc” đầu tiên mang bản sắc đặc trưng trong âm
nhạc dân gian, cơ sở cho sự phát triển nền âm nhạc truyền
thống phong phú của dân tộc Thái ở Tây Bắc.
Thứ hai: Nguyên lý “lắp khít” nhau của Po Me là nhân tố
của hai ngành khoa học. Đó là khoa sinh học khí huyết
nòi giống và khoa vật lý.
a, Khoa sinh học khí huyết nòi giống: đó là mối quan hệ
khăng khít dòng tộc, tiếng Thaí gọi là “đẳm” (dòng họ): bên
Po (cha) là “đẳm” ái mọng (anh em), bên Me (mẹ) là “đẳm”
lúng ta (dì già).
b, Khoa vật lý đó là thuật “tra cán” các công cụ và “lắp ráp”
các vật liệu để hoàn thiện một ngôi chùa của người Thái.
Chẳng hạn, chiếc cột nhà, trên đầu đẽo nhỏ một đoạn – đoạn
ấy gọi là “Po”, còn cái dầm, mỗi đầu khoét một lỗ tròn – lỗ
ấy gọi là “Me”. Khi hai cái đó “lắp khít” nhau như đôi cúc
bấm thì gọi là Po Me – tiếng Việt gọi là con tron và lỗ mộng.
Để thấy rõ hơn, ta thu nhỏ vấn đề lại ở một chiếc cửa sổ hình
chữ nhật, những lỗ mộng ở bục ngang là Me, còn mỗi đầu
thanh song dọc là Po. Chiếc cửa sổ hoàn thành ngay ngắn,
đẹp như bức tranh họa đồ. Đó là nhờ dựa vào nguyên lý “lắp
khít” nhau của Po Me gợi ý (theo dõi ở Kỳ 6: Cây rau dớn
hay hoa văn Po Me).
Ở người Thái, nguyên lý “lắp khít” nhau bên có núm “lòi” ra,
bên có lỗ “lõm” vào, từ vô thức đã chuyển cho từng thế hệ, từ
thuở trẻ mới bi bô tập nói. Chẳng hạn, khi ngồi cạnh chỗ
khâu vá, mẹ đang đơm cúc bấm và bảo: “au tô po”, nghĩa là
lấy con đực thì bé tìm đưa cho mẹ đúng cái nửa bên có
“núm” lòi ra.
Cũng cần nói thêm việc ứng dụng nguyên lý “lắp khít” nhau
của Po Me vào kỹ thuật “lắp ráp” vật liệu để làm nhà và “tra
cán” các công cụ thì dân tộc nào cũng có. Nhưng ở các dân
tộc, thuật ngữ gốc nay không còn nữa, đã chuyển nghĩa sang
các từ tha hóa. Nếu sắp xếp các từ tha hóa có ngữ nghĩa ấy
đứng cạnh nhau, như chiếc cuốc “chim” và lưỡi cày “bướm”
trong kỹ thuật tra cán của người Việt thì chúng ta sẽ thấy
hiện lên ngữ nghĩa. Vì ngôn từ “chim” “bướm” ở đây là
phiếm chỉ cái “đặc điểm” ấy của con người. Vả lại hình dáng
của lưỡi cày “bướm” có cái “bọng” ở giữa thân để tra cán,
điều đó gợi lên hình ảnh “lắp khít” nhau của Nõ Nường
(chim bướm) (Hình 1)
Hình 1
Tóm lại, một thuật ngữ ra đời như Po Me hoặc Nõ Nường
dựa trên yếu tố trực quan qua hiện vật: cái “lòi” ra, chỗ “lõm”
vào và hoạt động của hiện vật là “lắp khít” nhau, hẳn thuật
ngữ ấy được ra đời vào thời điểm chưa có tư duy trừu tượng
cao.