Văn học thiếu nhi Việt Nam thời kì hội nhập

1. Mở đầu Được tạo đà từ một thành tựu rực rỡ của văn học thời kì Đổi mới, văn học thiếu nhi Việt Nam cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI tràn đầy sức sống, vừa hội nhập với thế giới, vừa giữ gìn và phát huy những nét truyền thống của nguồn mạch văn học dân tộc. Đó là một nền văn học với đội ngũ nhà văn đông đảo, đa dạng về độ tuổi và phong cách; năng động về sức tìm tòi, khám phá, đổi mới tư duy và cách tiếp cận cuộc sống. Bên cạnh các nhà văn lớp trước như Tô Hoài, Phạm Hổ, Trần Hoài Dương, Nguyễn Quỳnh. là những cây bút trẻ xuất hiện vào những năm 90 (thế kỉ XX) như Trần Thiên Hương, Nguyễn Quang Thiều, Lê Cảnh Nhạc, Nguyễn Nhật Ánh, Hà Lâm Kì, Quách Liêu, Phan Hồn Nhiên. (về truyện) và Phùng Ngọc Hùng, Trương Hữu Lợi, Dương Thuấn, Mai Văn Hai. (về thơ) [3, 5, 6, 7, 9]. Tiếp nữa là những cây bút không chỉ trẻ về tuổi nghề mà còn rất trẻ về tuổi đời. Họ là những người vừa chia tay với tuổi thơ, đang hăm hở bước vào đời, như Hoàng Dạ Thi, Nguyễn Thị Thu Thuỷ, Nguyễn Thị Châu Giang, Thu Trân, Quế Hương, Nguyễn Thúy Loan. Lớp người viết trẻ này đã đem đến cho văn học thiếu nhi những nét mới trẻ trung, tươi tắn, đầy nhiệt huyết. Một lực lượng nữa cũng góp phần làm phong phú thêm cho đội ngũ sáng tác văn học thiếu nhi, là chính các em. Có thể thấy rõ điều này qua những tác phẩm Tuổi xanh, Mực tím, báo Thiếu niên tiền phong, Hoa học trò, Văn học với tuổi thơ.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 207 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Văn học thiếu nhi Việt Nam thời kì hội nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Sci., 2014, Vol. 59, No. 10, pp. 11-16 This paper is available online at VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM THỜI KÌ HỘI NHẬP Lã Thị Bắc Lý Khoa Giáo dục Mầm non, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Văn học thiếu nhi Việt Nam thời kì hội nhập là một nền văn học với đội ngũ nhà văn đông đảo, đa dạng về độ tuổi, giọng điệu và phong cách; năng động về sức tìm tòi, khám phá, đổi mới tư duy và cách tiếp cận cuộc sống, góp phần quan trọng làm nên diện mạo của nền văn học dân tộc. Từ khóa: Văn học thiếu nhi Việt Nam, gương mặt trẻ, nhà văn giao thời. 1. Mở đầu Được tạo đà từ một thành tựu rực rỡ của văn học thời kì Đổi mới, văn học thiếu nhi Việt Nam cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI tràn đầy sức sống, vừa hội nhập với thế giới, vừa giữ gìn và phát huy những nét truyền thống của nguồn mạch văn học dân tộc. Đó là một nền văn học với đội ngũ nhà văn đông đảo, đa dạng về độ tuổi và phong cách; năng động về sức tìm tòi, khám phá, đổi mới tư duy và cách tiếp cận cuộc sống. Bên cạnh các nhà văn lớp trước như Tô Hoài, Phạm Hổ, Trần Hoài Dương, Nguyễn Quỳnh... là những cây bút trẻ xuất hiện vào những năm 90 (thế kỉ XX) như Trần Thiên Hương, Nguyễn Quang Thiều, Lê Cảnh Nhạc, Nguyễn Nhật Ánh, Hà Lâm Kì, Quách Liêu, Phan Hồn Nhiên... (về truyện) và Phùng Ngọc Hùng, Trương Hữu Lợi, Dương Thuấn, Mai Văn Hai... (về thơ) [3, 5, 6, 7, 9]. Tiếp nữa là những cây bút không chỉ trẻ về tuổi nghề mà còn rất trẻ về tuổi đời. Họ là những người vừa chia tay với tuổi thơ, đang hăm hở bước vào đời, như Hoàng Dạ Thi, Nguyễn Thị Thu Thuỷ, Nguyễn Thị Châu Giang, Thu Trân, Quế Hương, Nguyễn Thúy Loan... Lớp người viết trẻ này đã đem đến cho văn học thiếu nhi những nét mới trẻ trung, tươi tắn, đầy nhiệt huyết. Một lực lượng nữa cũng góp phần làm phong phú thêm cho đội ngũ sáng tác văn học thiếu nhi, là chính các em. Có thể thấy rõ điều này qua những tác phẩm Tuổi xanh, Mực tím, báo Thiếu niên tiền phong, Hoa học trò, Văn học với tuổi thơ... 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Những nhà văn giao thời của hai thế kỉ Trong thời kì này, những nhà văn giao thời của hai thế kỉ như Nguyễn Nhật Ánh, Dương Thuấn, Nguyễn Quỳnh. . . vẫn giữ được phong độ và cảm hứng sáng tạo trong thế kỉ mới. Ngày nhận bài 11/7/2014. Ngày nhận đăng 2/10/2014. Liên lạc Lã Thị Bắc Lý, e-mail: lyltb@hnue.edu.vn. 11 Lã Thị Bắc Lý Với thành công đặc biệt của Kính vạn hoa cùng với gần ba mươi tập sách viết cho lứa tuổi hoa học trò, Nguyễn Nhật Ánh được bình chọn là tác giả tiêu biểu nhất của VHTNViệt Nam những năm cuối thế kỉ XX. Sang đầu thế kỉ XXI, anh đột ngột “chuyển hướng” sang lối kể chuyện hoang đường, kì bí. Bộ truyện dài nhiều tập Chuyện xứ Lang-bi-ang là sự thử nghiệm một lối viết mới của nhà văn được các bạn đọc nhỏ tuổi yêu quý. Là truyện hoang đường nhưng không phải là viển vông, tùy hứng. Sự tưởng tượng của Nguyễn Nhật Ánh được dựa trên nền tảng vững chắc, đó là tâm lí trẻ thơ. Với Chuyện xứ Lang-bi-ang, anh đã chạm đúng vào một trong những đặc điểm nổi bật của tâm lí trẻ thơ, đó là tính tò mò, thích phiêu lưu, mạo hiểm, thích khám phá. Nguyễn Nhật Ánh đã làm được một điều kì diệu, đó là đem đến cho bạn đọc trẻ thơ sự thú vị và niềm vui háo hức mong chờ những tác phẩm tiếp theo của anh.Và quả nhiên, Nguyễn Nhật Ánh đã không làm bạn đọc thất vọng. Anh đã thể hiện sức viết bền bỉ của mình bằng một loạt tác phẩm như Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Lá nằm trong lá, Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ, Ngồi khóc trên cây. . . Vẫn với lối viết dí dỏm kiểu Kính vạn hoa, Tôi là Bê tô nhưng dấu ấn tâm trạng tác giả đã in đậm nét hơn, tâm trạng của con người càng đi xa tuổi thơ càng da diết nhớ về tuổi thơ. Những tác phẩm viết đầu thế kỉ XXI của anh mang nặng những chiêm nghiệm, suy tư về con người và cuộc đời. Quá khứ tưởng như đã ngủ yên, khuất lấp sau bao bề bộn của đời thường bỗng nhiên trở về, vụt sống dậy, sáng tỏ những gương mặt người, những cảm giác, cảm xúc chôn sâu trong tâm trí. Tuổi ấu thơ đẹp đẽ thần tiên một đi không trở lại. Hồi ức như “tấm vé” đưa Nguyễn Nhật Ánh trở về sân ga tuổi nhỏ, để mỗi chuyến tàu là một cuộc ngược dòng thời gian tìm về thế giới trong trẻo, hồn nhiên. Mỗi chuyến đi không chỉ hiển lộ quá khứ mà còn là cuộc hành trình nhiều chiêm nghiệm, suy tư về con người và cuộc đời. Tập Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ đã được giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam và giải thưởng Asean, 2010. . . Nhà văn Nguyễn Quỳnh – người đã từng thành công với những tác phẩm đạt giải cao trong các giải thưởng hàng năm thời kì Đổi mới - vẫn tiếp tục khai thác mảng đề tài đường rừng. Những tác phẩm tiêu biểu như Đứa con phiêu bạt và kí ức người cha, Dũng sĩ rừng xanh, Sói gầm trên đỉnh dốc, và đặc biệt gần đây là Cậu bé người rừng (2012). . . vẫn hấp dẫn bạn đọc bởi những trang viết đầy ấn tượng miêu tả cảnh thiên nhiên hoang dã, khắc nghiệt, cảnh thú dữ rừng xa và những chuyện phiêu lưu, mạo hiểm. Cùng với chất văn dạt dào cảm xúc, phóng khoáng, Nguyễn Quỳnh đã “làm mới” sự cảm nhận của bạn đọc về thiên nhiên trong sự phiêu lưu, khám phá thú vị đậm chất nhân văn. Cũng như Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Quỳnh, nhà thơ người Tày Dương Thuấn là tác giả viết cho thiếu nhi thành công giữa hai thế kỉ. Đi nhiều, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới, nhưng không vì thế mà anh lúng túng trong sự hội nhập. Bình tĩnh với lối viết truyền thống, Dương Thuấn giới thiệu với bạn đọc con người và mảnh đất vùng cao Bắc Kạn quê anh. Sau tập thơ Cưỡi ngựa đi săn được tặng giải A Giải thưởng Văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam, 1992, Dương Thuấn vẫn tiếp tục cuộc hành trình với khát vọng giới thiệu được thật nhiều hình ảnh của quê hương và văn hóa dân tộc Tày tới mọi người. Tuyển tập Dương Thuấn, (3 tập- Riêng tập 3 dành cho thiếu nhi), xuất bản song ngữ Tày- Kinh (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2010) đánh dấu một chặng đường sáng tác của anh. Đến với Tuyển tập Dương Thuấn (tập 3), bạn đọc sẽ gặp ở đó một thế giới trẻ thơ cùng với thiên nhiên vùng cao hết sức sống động. Đó là cỏ cây hoa trái muôn sắc màu, là tiếng suối reo, là hòn sỏi thần kì, là tiếng hò săn bắn, là một làn khói sớm với mùi thịt nướng, là những phong tục tập quán, những huyền thoại làm mê đắm lòng người. Thơ Dương Thuấn đã dựng nên một không gian rộng lớn, vừa hùng vĩ vừa lãng mạn; vừa xa xôi lại vừa 12 Văn học thiếu nhi Việt Nam thời kì hội nhập rất đỗi gần gũi, thân thương và quyến rũ. Ở vùng quê ấy, con người được sống hồn nhiên, vô tư trong sự bao bọc, vỗ về của thiên nhiên, trong cái đẹp vô biên của trời đất - Người và cảnh, cảnh và người giao hòa, quấn quýt với nhau: Nơi đó chỉ có mây và suối/ Người ngủ cùng mặt trăng. . . Dương Thuấn đã vận dụng tới mức tối đa những chất liệu riêng biệt của vùng quê văn hóa Tày để làm nên một thế giới nghệ thuật sinh động và độc đáo. Những hình tượng nghệ thuật trong thơ anh, từ hình tượng con người đến hình tượng thiên nhiên đều mang những nét điển hình của vùng Tày Bắc Kạn. Đó là Những bà mẹ xứ Mây chân đi giày vải, Những em bé xứ Mây/ Tóc nâu/ Da thơm mùi cỏ, những chàng trai, cô gái xứ Mây; là cuộc sống vùng sơn cước giản dị mà huyền bí. Đó là dòng sông, ngọn núi, thảo nguyên bốn mùa hoang sơ, kì ảo; là bản làng quanh năm thơm mùi nếp nương, bắp bãi; là ngất ngây tiếng cười và men rượu trong những Chợ phiên, những Lễ hội Lồng tồng, những rằm Tháng bảy, những tết Trung thu. . . say người, say cảnh. . . Có thể nói, giữa cuộc sống cấp tập, bộn bề của xã hội thời kì hội nhập, thơ Dương Thuấn vẫn là Khúc ca cao nguyên ngân vang những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đất nước quê hương. Một số tuyển tập tuyển những câu chuyện, những bài thơ hay nhất, đẹp nhất, đánh dấu những nỗ lực của các nhà văn trong sự nghiệp sáng tác cho các em cũng góp phần làm phong phú thêm cho văn học thiếu nhi Việt Nam giai đoạn này như Trần Hoài Dương - Truyện ngắn chọn lọc (2006), tuyển thơ Con chuồn chuồn đẹp nhất của Cao Xuân Sơn (2010), Dắt biển lên trời của Hoài Khánh (2012). . . Đọc Trần Hoài Dương, bạn đọc được đắm mình trong những trang văn đẹp đến mê hoặc: “Bầu trời hồng lên, lấp lánh những màu kì diệu. Những hạt phấn màu ấy rơi xuống, phủ lên muôn vật. Lập tức rừng rào rào nảy lộc, lá non xanh mướt run rẩy vẫy gió, suối tung bọt trắng xóa, cỏ cựa mình sột soạt, hoa đào, hoa mai, hoa tường vi, hoa tầm xuân, hoa mận, hoa lê. . . đua nhau nở, phô sắc phô hương rực rỡ ngào ngạt cả đất trời” (Tiếng mùa xuân). Đến với Cao Xuân Sơn là đến với những vần thơ đầy chất thế sự: Tôi đã từng rình, nấp mê say/ Nhưng chỉ thấy một con chuồn đẹp nhất/ Chính là con chuồn chưa bao giờ bị bắt/ Con chuồn chuồn. . . đang bay (Cao Xuân Sơn). Và Hoài Khánh là những vần thơ mang cái nhìn con trẻ, ngộ nghĩnh: Sáng ra biển hóa trẻ con/ Sóng lắc ông mặt trời thức dậy/ Dã tràng cõng nắng lon xon/ Mắt thụt mắt thò hấp háy; Lon ton qua vách đá/ Bỗng trốn vào thung chơi/ Rồi tót về bến cá/ Đường chạy thẳng ra khơi/ Từ làng chài vào lớp/ Đường nằm trong khoang thuyền. . . Hoặc tràn đầy tâm sự: Đơn sơ tre lá giấy bồi/ Gửi vào ngọn gió thành lời quê hương; Chuyện cổ tích ngủ lì trên cánh võng/ Ai nhặt nắng rơi trong giấc mơ nồng . . . 2.2. Những gương mặt trẻ Bên cạnh những cây bút trưởng thành từ thế kỉ XX là những gương mặt trẻ mới xuất hiện như Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Lãm Thắng, Đặng Chân Nhân và Ngô Gia Thiên An... Nguyễn Ngọc Thuần mở đầu cho văn học thiếu nhi Việt Nam thế kỉ XXI bằng những tác phẩm liên tiếp được giải cao: Giăng giăng tơ nhện (Giải ba cuộc vận động Sáng tác văn học tuổi 20 năm 2000), Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ (Giải A cuộc thi sáng tác văn học Vì tương lai đất nước lần thứ ba 2001- 2002, giải thưởng Peter Pan của Thụy Điển năm 2008 dành cho những tác phẩm văn học thiếu nhi hay nhất). Một thiên nằm mộng (Giải A cuộc vận động sáng tác cho thiếu 13 Lã Thị Bắc Lý nhi (2001- 2002). Truyện Nguyễn Ngọc Thuần thu hút người đọc ở giọng văn trong trẻo, với cái nhìn hồn nhiên, đầy sự ngạc nhiên thơ trẻ. Thế giới xung quanh rất quen thuộc qua con mắt của anh bỗng trở nên sống động, tinh khôi, trong vắt và đầy yêu thương, mới lạ. Truyện Nguyễn Ngọc Thuần đem lại cho bạn đọc cảm nhận về một thế giới thuần khiết, thanh sạch: “Bạn sẽ tiếc lắm nếu thế giới này vắng đi những bông hoa. Bạn sẽ tự hỏi, tại sao trong khu vườn không có người dẫn lối? Người ta sẽ ngạc nhiên hỏi lại, người dẫn lối nào? Bạn sẽ từ từ nói, đó là những bông hoa. . . . Những bông hoa chính là người đưa đường. . . ”. Nguyễn Ngọc Tư viết cho thiếu nhi không nhiều. Khiêm tốn một tập truyện Ông ngoại với tám câu chuyện nhỏ nhắn, xinh xắn nhưng cũng đủ cho bạn đọc cảm nhận về một Ngọc Tư giản dị mà tinh tế; nhỏ nhẻ mà sâu sắc. Trở đi trở lại trong những câu chuyện này là hình ảnh một cô bé hoặc cậu bé với tâm hồn nhạy cảm, tràn ngập tình yêu thương, biết chia sẻ, biết trân trọng những gì mình có, biết quý yêu những gì người khác dành cho mình (Cô bé trong Bà mẹ vườn cau, Dung trong Ông ngoại, Cậu bé trong Lụm Còi. . . ). Những mẩu ngắn ngắn thấm đẫm tình người, tình cỏ cây, hoa trái, cùng với lối văn nhẹ nhàng, trong sáng; lối kể chuyện tự nhiên, thì thầm. . . Nguyễn Ngọc Tư đã dẫn bạn đọc đến với những rung động mỏng manh, tinh vi nhất của con người. Mảnh đất miền Tây, con người miền Tây hiện lên trong những trang viết của Nguyễn Ngọc Tư giản dị mà thật ám ảnh: “Bà nội dẫn tôi ra vườn, cái nắng sau mưa nồng ngả vàng pha sắc đỏ, những giọt nước còn đọng lại trên tán lá non. Ở đây cái gì cũng chín, từ trái mít, trái đu đủ, trái chanh, đến cả buồng cau. Trái chín đỏ lừ bên hông cau trắng muốt, tóc Nội cũng trắng phau phau. . . ” , “Món thịt ếch đầu mùa lịm trong lưỡi làm ba đau nhói. . . ” (Bà mẹ vườn cau); “Nội hay ra ngoài hiên, chăm chăm nhìn giàn bầu đang run rẩy trong gió. Bà ngồi đấy lặng lẽ, thẫn thờ, như chờ một tiếng vạc sành, một tiếng ếch kêu. . . .” , “Ôi cái quê của nội. Cái quê heo hút muốn về phải đi mấy chặng xe, tàu. . . có thể bứt người ta ra khỏi quê hương nhưng không thể tách quê hương ra khỏi trái tim con người." (Giàn bầu trước ngõ) . . . Nhà thơ trẻ Nguyễn Lãm Thắng với 1008 bài thơ thiếu nhi đã thực sự chinh phục bạn đọc bởi những vần thơ đầy tâm huyết. Tập thơ viết về nhiều đề tài nhưng tất cả đều xoay quanh một trục chính: trẻ thơ. Có thể thấy trong thơ anh, hình ảnh một tuổi thơ êm đềm, giản dị. Không cầu kì kiểu cách. Thơ Lãm Thắng là sự hòa quyện giữa tình yêu thương trìu mến và sự mộc mạc chân thành. Trong trẻo và hồn nhiên, thơ anh khiến người đọc cảm nhận sự gần gũi, tựa như lời thơ, ý thơ cứ đi thẳng từ tấm lòng người viết mà giãi bày trên trang giấy. Trong thơ anh, sức mạnh của truyền thống kết hợp với cách nhìn, cách cảm của trẻ thơ tạo ra một dấu ấn đặc biệt. Có lẽ đó cũng là một lý do hết sức quan trọng để nhiều bài thơ thiếu nhi của anh (hơn ba mươi lăm bài thơ) được phổ nhạc, trở thành những bài hát với giai điệu vui tươi, trong sáng dễ gần với tuổi thơ như Cháu vẽ, Mưa xuân, Mời bạn về thăm xứ Huế, Chợ Xuân (Quỳnh Hợp phổ nhạc) và Cô tập em viết, Màu ước mơ, Bài hát thày dạy, Ông trăng ơi, Mẹ ơi con ngủ, Lồng đèn, Quạt bà quạt bố, Mùa xuân đã về, Nơi tuổi thơ em. . . (Trương Pháp phổ nhạc). Tập thơ hiếm hoi dành cho thiếu nhi của Vi Thùy Linh Chu du cùng ông nội (gồm 23 bài) là những kỉ niệm về tuổi thơ, về gia đình, về ông nội. Sự trở về với tuổi thơ có lẽ cũng là một hướng sáng tác mới trong “đường thơ” của chị, một người luôn say sưa, luôn “điên cuồng với thơ”. Hai tác giả thực sự trẻ là Đặng Chân Nhân (sinh năm 1993) với Giấc mơ và Ngô Gia Thiên An (sinh năm 1999) với tập thơ đầu tay Những ngôi sao lấp lánh đã đem đến cho bạn đọc một cái 14 Văn học thiếu nhi Việt Nam thời kì hội nhập nhìn mới mẻ về cuộc sống , thiên nhiên và vũ trụ của thế hệ trẻ ngày hôm nay. Kể từ sau Trần Đăng Khoa, Cẩm Thơ, Khánh Chi, Hoàng Dạ Thi, Ngô Thị Bích Hiền. . . , rất lâu, bạn đọc Việt Nam mới lại được đọc những trang thơ hồn nhiên, trong trẻo do chính các em viết. Năm 2011, khi Nhà xuất bản Kim Đồng phát hành Giấc mơ và Những ngôi sao lấp lánh, nhiều người đã gọi hai tác giả này là “Thần đồng” thơ thế kỉ XXI. Thiên An viết về cuộc sống với những sự việc xảy ra xung quanh cùng những điều em băn khoăn và mơ ước, ví dụ: Một đàn kiến nhỏ/ Chạy ngược chạy xuôi/ Nhảy múa ca vui/ Cùng nhau ăn bánh/ Đến trưa nắng gắt/ Thì về ngủ trưa (Đàn kiến nhỏ). . . Trong con mắt của em, cuộc sống lung linh như “Những ngôi sao bay trên bầu trời thật đẹp/ Chúng lấp lánh như những bóng đèn”. . . Cả khi trong bầu trời đen tối, những ngôi sao không còn nữa, em vẫn thấy “Chúng đã chết đi một cách yên lặng và đẹp đẽ”. . . Thơ Chân Nhân cũng là những câu chuyện về gia đình, về vũ trụ, cuộc sống, thiên nhiên và cây cỏ nhưng mang vẻ hồ nghi, già dặn so với tuổi của em. Trở đi trở lại trong nhiều bài thơ là những suy nghĩ của cậu bé hơn 10 tuổi về cuộc sống, về bản thể tự do: Nếu cuộc sống hoàn hảo/ Sẽ không có sự sợ hãi, lo lắng hay chiến tranh/ Sẽ không có cả những điều ước, hi vọng hay giấc mơ/ Cuộc sống sẽ quá dễ để đoán trước (Cuộc sống ở một cái nhìn khác); Cuộc sống chỉ là một trò chơi/ Và thế giới là sân chơi của tôi/ Tôi đặt ra luật riêng cho tôi/ Tôi có đồ chơi riêng của tôi/ Đừng làm phiền tôi/ Vì tôi đang thích thú/ Cuộc sống là sự tự do của tôi (Trò chơi). . . Một số tác giả nổi lên từ giải thưởng Cây bút Tuổi hồng (Giải thưởng hàng năm của Trung ương Đoàn TNCS Hồ chí Minh, Báo Thiếu niên tiền phong phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam, bắt đầu từ năm 2011) như Đỗ Tú Cường (TP Hồ Chí Minh), Nguyễn Đan Thi (Hà Nội), Võ Hương Nam (Đắc Lắc). . . cũng góp phần làm nên sự đa dạng của Văn học thiếu nhi những năm gần đây. 2.3. Thành tựu Văn học thiếu nhi Việt Nam thời kì hội nhập đã ghi những thành tựu đáng kể, thực sự thu hút bạn đọc không chỉ bởi cách tiếp cận cuộc sống mà còn là sự đa dạng trong phong cách, trong giọng điệu làm nên sức hấp dẫn của văn học thiếu nhi giai đoạn này. Cũng không phải mỗi nhà văn, mỗi tác phẩm chỉ có một giọng điệu mà đôi khi còn có sự phối hợp, xen kẽ, tạo nên sự đa dạng ngay trong một tác giả. Nếu ở giai đoạn trước năm 1975, cảm hứng sử thi tạo cho văn học giọng điệu trang nghiêm; thời kì Đổi mới nổi lên cảm hứng đời tư - thế sự với giọng suy tư, triêt lí thì ở giai đoạn này, với hiện thực đời sống bình thường, văn học cho các em mang giọng gần gũi, tự nhiên, bình đẳng với bạn đọc hơn. Bên cạnh đó là giọng trữ tình tiếp nối văn mạch truyền thống đậm tính nhân văn, hướng về những kiếp người, những cảnh ngộ bi thương; những tình cảm sáng trong, cao đẹp của con người và những cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp của đất nước, quê hương. Đặc biệt là giọng tinh nghịch, hóm hỉnh, mang tính đặc thù của VHTN vẫn được phát triển. Chất hóm, nghịch gây cho người đọc những tiếng cười sảng khoái được vận dụng như một phương tiện giúp các em tiếp nhận tác phẩm một cách vui vẻ, thoải mái. Nhìn chung, sự đa dạng của giọng điệu đã chứng tỏ tính cập nhật của VHTN hiện nay, không xa rời, lạc lõng với đời sống xã hội và đời sống văn học nói chung; vừa hoà đồng với văn học Việt Nam hiện đại, vừa tỏ rõ sức mạnh là một bộ phận văn học riêng - văn học dành cho trẻ em. 15 Lã Thị Bắc Lý 3. Kết luận Nhìn chung, đội ngũ sáng tác văn học thiếu nhi thời kì Đổi mới và Hội nhập đã phát triển thật hùng hậu. Nó chứng tỏ tính chuyên nghiệp của bộ phận sáng tác cho các em. Và cũng vì vậy mà chưa bao giờ, văn học thiếu nhi Việt Nam lại phát triển phong phú như ở thời kì này. Sáng tác cho các em vừa có sự mở rộng về đề tài và hướng tiếp cận cuộc sống, vừa đa dạng về giọng điệu. Với những thành tựu như vậy, văn học thiếu nhi xứng đáng giữ một vị trí quan trọng, góp phần làm nên diện mạo của nền văn học dân tộc. (*) Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số VII.1.3-2012-10. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Thái Phan Vàng Anh, 2013. Nguyễn Nhật Ánh, người kể chuyện của thiếu nhi. Tạp chí Non nước, số 187 (tháng 6), tr.59-64. [2] Báo mới online, 2014. Nguyễn Nhật Ánh: “Tôi biến hóa những kỉ niệm vào trang viết”. -viet/152/13617871.epi, cập nhật ngày 06/05/2014. [3] Vũ Ngọc Bình, 1993. Văn học thiếu nhi trong tiến trình đổi mới. Tạp chí Văn học, số 5, tr.8-9. [4] Vân Hà (tổng thuật), 2010. Những ảnh hưởng của văn học thiếu nhi đến sự phát triển nhân cách trẻ em trong thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế. Thông tin khoa học xã hội, số 1, tr.33-38. [5] Lê Phương Liên, 2009. Viết cho thiếu nhi là viết cho tương lai. cập nhật ngày 20/06/2014. [6] Lê Phương Liên, 2013. Mấy suy nghĩ về văn học thiếu nhi thời kì đổi mới. cập nhật ngày 07/07/2014. [7] Vân Thanh (biên soạn), 2006. Tác giả văn học thiếu nhi Việt Nam. Nxb Từ điển bách khoa. [8] Dương Thuấn, 2010. Tuyển tập Dương Thuấn (3 tập). Nxb Hội Nhà văn. [9] Bùi Thanh Truyền (chủ biên), 2009. Thi pháp trong văn học thiếu nhi. Nxb Giáo dục. ABSTRACT Vietnam Children’s Literature in the period of integration Vietnam Children’s Literature in the period of integration was created by a large number of writers of all ages presenting works with a variety of tones and styles. It was dynamic, high energy and encouraged discovery, innovative thinking and a more modern approach to life. 16