1. TOÀN CẦU HOÁ VĂN HOÁ VÀ
NGÔN NGỮ
Năm 1992, sau khi Liên Xô và Đông
Âu sụp đổ, chiến tranh lạnh chấm dứt, cơ
chế kinh tế thị trường nhanh chóng được
hầu hết các quốc gia trên thế giới chấp
nhận. Tổng Thư kí Liên Hợp quốc lúc bấy
giờ là Boutros Galy đã có một câu khái
quát nổi tiếng: “
Dưới tác động của những tiến bộ
trong tin học và viễn thông, sự giao lưu
rộng rãi diễn ra trên toàn cầu trong mọi
lĩnh vực. Từ toàn cầu hoá trong kinh tế,
kéo theo toàn cầu hoá trong văn hoá, ngôn
ngữ, xã hội.
Dù muốn hay không, toàn cầu hoá nói
chung, “toàn cầu hoá văn hoá” và “toàn
cầu hoá ngôn ngữ” nói riêng, hiện đang là
xu hướng không thể nào đảo ngược được.
Mở đầu bài “C ờ ”
đăng trên báo “Thế giới & Việt Nam”
tháng -2 9, tác giả Minh Nhân đã viết:
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 192 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Về vấn đề giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ và bảo tồn văn hóa trong kỉ nguyên toàn cầu hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 - Thaùng 6/2011
12
VỀ VẤN ĐỀ GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA NGÔN NGỮ
V O T N V N OÁ TRONG NG N TO N C OÁ
TRẦN NGỌC THÊM (*)
TÓM TẮT
đ ì q ậ q ì B ê í
í q ậ ư
ê đ đ đ ậ đ ì
đư đ q đ q đ ì
đ ê ậ ư í h hai
ê ê ọ đ ê đ
ậ M í ê í ọ
ẩ ì ê ẩ
đư ứ ậ ọ ê q ê ứ
ọ ò q đị í q ò ọ đ
đ ẻ ẫ ì ẫ ọ ừ ứ
ì ườ ẩ x đ ư đ đ ứ
ư ừ ê q ắ đ :
ư đ (*)
ABSTRACT
In the world of globalization, it is unavoidable to keep our language and culture from
being globalized. The globalization of language and culture will certainly lead to their
decline. Since it is impossible to preserve them partly without having them globalized, we
should go in search of the laws that govern this process. This article mentions four
universal laws governing globalization.
On such a basis, the article concludes that the maintenance of language clarity should
be in relation to cultural preservation and that in this relationship the changes of our
national language in the era of globalization are indispensable and double-sided.
I w ’ ’
instead. Double-sided as they are, equal attention should also be paid to the development
of their positive side and to the standardization and preservation of our language. Culture
and language are the property of our people, so standardization should be carried out with
much care not only on the basis of scientific research and the decision of the government
f f ’ f
f W ’ j
that all the abnormalities are non-standard but should consider to what extent their
(*)
GS.TSKH, Trường Đại học KHXH & NV
TP. Hồ Chí Minh
13
w W ’ w
exaggerate the risks since our language is like a living body which can adjust itself.
1. TOÀN CẦU HOÁ VĂN HOÁ VÀ
NGÔN NGỮ
Năm 1992, sau khi Liên Xô và Đông
Âu sụp đổ, chiến tranh lạnh chấm dứt, cơ
chế kinh tế thị trường nhanh chóng được
hầu hết các quốc gia trên thế giới chấp
nhận. Tổng Thư kí Liên Hợp quốc lúc bấy
giờ là Boutros Galy đã có một câu khái
quát nổi tiếng: “
đã ư ờ đ
hoá”.
Dưới tác động của những tiến bộ
trong tin học và viễn thông, sự giao lưu
rộng rãi diễn ra trên toàn cầu trong mọi
lĩnh vực. Từ toàn cầu hoá trong kinh tế,
kéo theo toàn cầu hoá trong văn hoá, ngôn
ngữ, xã hội...
Dù muốn hay không, toàn cầu hoá nói
chung, “toàn cầu hoá văn hoá” và “toàn
cầu hoá ngôn ngữ” nói riêng, hiện đang là
xu hướng không thể nào đảo ngược được.
Mở đầu bài “C ờ ”
đăng trên báo “Thế giới & Việt Nam”
tháng -2 9, tác giả Minh Nhân đã viết:
“K ẹ đẻ đư
ư ì
” đ
GS SKH N ọ ê H K
ọ xã N P HCM
ê ờ ừ
ò í ọ J
đ ư ườ đ ọ
C ọ ụ
đ ử ụ
A ứ đ g ngày
ụ đ
ọ ọ ê ắ S
ù
ậ ẫ đ
ư Mĩ” [Minh Nhân, 2009].
Minh Nhân nói đúng.
Có thể có người sẽ cho rằng chúng tôi,
với tư cách một nhà nghiên cứu ngôn ngữ
và văn hoá, đã tự mâu thuẫn với mình khi,
một mặt cảnh báo và mong muốn bảo tồn
ngôn ngữ và văn hoá dân tộc, mặt khác lại
tán thành phe đối lập mà thừa nhận rằng sự
mai một của chúng là không tránh khỏi!
Xin thưa, hoàn toàn không mâu thuẫn
chút nào!
Nhà khoa học có đặc tính là không để
tình cảm riêng chi phối, mà chỉ để mình bị
chi phối bởi chân lí khách quan. Đứng
trước chân lí khách quan thì nhà khoa học
sẽ đi tìm q ậ . Và chính quy luật sẽ
giúp q ẫ một cách hiệu
quả nhất.
Ở đây, “tình cảm riêng” là mong muốn
bảo tồn ngôn ngữ và văn hoá dân tộc.
“Chân lí khách quan” là xu hướng tất yếu
của sự toàn cầu hoá văn hoá và ngôn ngữ.
Vậy “quy luật” ở đây là những gì?
2. MỘT SỐ QUY LUẬT CHI PHỐI
HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÔN
NGỮ VÀ VĂN HOÁ
Đặc điểm của mọi quy luật là bao giờ
cũng rất đơn giản. Xin nhắc ra đây một số
chân lí mang tính quy luật, mà nội dung có
thể là rất tầm thường, nhưng rất hữu ích
trong việc đánh giá những biến động đang
xảy ra với ngôn ngữ và văn hoá.
2.1.
ra ả ực
Toàn cầu hoá là x ư ậ
14
vào cái chung quốc tế , nó làm phát sinh
ra phản lực là ẹ thậm chí
tiêu) cái riêng dân tộc , trước hết là văn
hoá và ngôn ngữ. Trung bình cứ khoảng 2
tuần, thế giới lại bị mất đi một ngôn ngữ;
chỉ riêng ở Nga, từ sau khi Liên Xô sụp đổ
đến nay đã có ít nhất 2 ngôn ngữ diệt
vong [Xaluan 2008]. Nguy cơ thu hẹp
hoặc triệt tiêu cái riêng đến lượt mình làm
phát sinh ra phản lực tiếp theo là
. Chính cái phản lực bậc hai này là
nguồn gốc của trào lưu quan tâm đến việc
bảo tồn văn hoá và sự phát sinh các phong
trào chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa li khai
nở rộ trên phạm vi toàn thế giới.
Theo nguyên lí khí động học thì phản lực
không làm triệt tiêu động lực sinh ra nó mà
chỉ giúp vũ trụ duy trì trạng thái cân bằng.
2.2. Đã x ướ ấ yế ì k ô
ê c ố (bả ủ), cũ k ô ê
ùa e (a d a), ợ í ơ
cả ì c c ợ dụ ó
Không nên hùa theo, vì hùa theo là làm
thay đổi mình quá nhanh. Cũng không nên
chống lại, vì chống lại là không thể, vô ích
và có hại. Trên bàn cờ chính trị thế giới,
hiển nhiên là m i quốc gia theo đuổi những
mục tiêu khác nhau của riêng mình. Vấn đề
“chủ nghĩa đế quốc văn hoá” và “chủ nghĩa
đế quốc ngôn ngữ” là hoàn toàn có thật.
Không chỉ riêng Mĩ, mà các cường quốc
khác như Pháp, Đức, Liên Xô(1), Trung
Quốc, v.v. đều từng đã hoặc đang sử dụng
văn hoá, ngôn ngữ và nhiều thứ khác như
những “sức mạnh mềm” hoặc kết hợp giữa
“sức mạnh cứng” với “sức mạnh mềm”
thành cái mà họ gọi là “sức mạnh thông
minh” vào việc chinh phục các quốc gia
dân tộc khác một cách tinh vi. Các quốc
gia nhỏ có tránh được “sức mạnh mềm”
của cường quốc này thì cũng sẽ rất dễ rơi
vào ảnh hưởng “sức mạnh mềm” của
cường quốc khác.
Cả hùa theo và đều là những
cách hiệu quả. Hùa theo trong việc
phát triển hệ thống truyền thông gần như
vượt quá khả năng kiểm soát về mặt văn
hoá, một số kênh truyền hình của chúng ta
hiện đang vô tình đầu độc trẻ em bằng
những phim nhiều chất bạo lực, những lời
mời gọi nhắn tin và gọi điện đến “Tổng đài
chị Thỏ Ngọc”, v.v. Hậu quả là màu sắc
thương mại thâm nhập vào mọi thứ quan
hệ, bạo lực gia đình, học đường gia tăng
đến mức báo động. Chống lại hiện tượng
mại dâm, chúng ta rơi vào tình trạng nạn
mại dâm lan tràn từ thành thị đến nông
thôn, số người nhiễm HIV hàng năm tăng
nhanh với tốc độ chóng mặt. Tất cả những
cái đó là gì nếu không phải là tự sát? Trong
khi đó nhiều quốc gia vốn rất bảo thủ đã
“chấp nhận” mại dâm một cách dè dặt, nhờ
vậy mà khoanh vùng và kiểm soát được nó,
thậm chí còn khai thác nó để phát triển du
lịch rất hiệu quả trường hợp Thái Lan .
Việc chọn cách ứng xử nào phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố, nhưng cách ứng xử
của Thái Lan là ví dụ điển hình cho triết lí
không chống được thì lợi dụng. Việc “lợi
dụng” này luôn có thể thực hiện được nhờ
vạn vật trong vũ trụ đều tuân thủ sự tồn tại
của luật âm dương.
2.3. T e ậ â dươ , c ì cũ
có a ặ
Hiện tượng mà chúng ta đang gọi là sự
bát nháo trong sử dụng ngôn ngữ hiện nay
làm cho không chỉ những người yêu tiếng
Việt, mà bất kì ai dùng tiếng Việt đều cảm
thấy bực mình. Nhưng dẫu sao nó cũng có
mặt tích cực là làm
ọ ê
phát . Không phải là tất
15
cả mọi thứ lai tạp, sáng tạo của mọi giới,
mọi lứa tuổi, mọi nghề đều sẽ được tiếng
Việt chấp nhận hết. Nhưng chúng tạo nên
một phổ lựa chọn rộng hơn trước rất nhiều.
Phải thừa nhận rằng những biến thể từ
được tạo ra theo phương thức cấu tạo từ
“lược bỏ nguyên âm chính” của “tuổi teen”
như iu = yêu, nhìu = nhiều, bít = biết,
= hiểu, v.v. giúp cho việc diễn đạt trong
những phạm vi nhất định trở nên thú vị
hơn, dễ thương hơn hẳn.
Hay việc dùng tiếng Anh. Ta hãy
tưởng tượng: nếu những cố gắng Việt hoá
Hệ điều hành indo s và các phần mềm
của những người yêu tiếng Việt thành công
thì điều gì sẽ xảy ra? Chắc chắn là việc học
tin học không những không dễ hơn mà,
ngược lại, sẽ khó và chậm hơn rất nhiều.
Ngôn ngữ là một bộ phận quan trọng
vào bậc nhất của văn hoá. Ngôn ngữ là một
tài sản vô cùng qúi giá của dân tộc, nơi lưu
giữ kí ức của dân tộc cùng vô vàn thông tin
văn hoá. Song suy cho cùng, tất cả những
điều đó đều là những giá trị phụ, chức năng
phụ của ngôn ngữ. Chức năng làm ụ
mới là chức năng chính duy nhất
không ai phủ nhận được của ngôn ngữ. Sự
đa dạng của ngôn ngữ tuy có giá trị là cái
chỉ báo cho sự phong phú về văn hoá,
nhưng xin đừng quên rằng mặt phản giá trị
của nó còn lớn hơn – đó chính là rào cản
lớn nhất cho việc giao tiếp, là tháp Babilon
chia rẽ nhân loại, cản trở hội nhập. Vì vậy
mặt tích cực của toàn cầu hoá ngôn ngữ
chính là việc phá bỏ rào cản này.
2.4. Tự ê r
ược ế y ay ờ ậ c tranh
Lâu nay, cả các quốc gia tư bản lẫn các
quốc gia Xã hội Chủ nghĩa XHCN đều
luôn nói đến dân chủ nhưng trong lĩnh vực
ngôn ngữ, cả bên này lẫn bên kia đều có
những quốc gia chủ quan duy ý chí nên đã
lạm dụng quyền lực, không tôn trọng quy
luật khách quan. Biểu hiện nhẹ của sự áp
đặt này là sáng tạo và tuyên truyền cho
những cách nói cách viết cứ tưởng là trong
sáng như thay cho ị
ọ đ ọ thay cho sinh viên, v.v.),
mà không biết rằng thực chất đã thay một
từ Hán-Việt này bằng hai từ Hán-Việt
khác. Biểu hiện nặng của sự áp đặt này là
tự cho mình cái quyền ra điều luật này điều
luật kia buộc dân chúng được sử dụng từ
này mà cấm sử dụng từ kia như ở Pháp .
Tuy nhiên, ngôn ngữ là một lĩnh vực
đặc biệt, nó không chấp nhận quyền lực,
mà chỉ tuân theo những quy luật văn hoá.
Chẳng hạn, văn hoá Pháp vốn có tính cực
đoan và bảo thủ. Vì vậy, trong lĩnh vực
ngôn ngữ, các quy định mang tính pháp
luật do Chính quyền đưa ra không phải lúc
nào cũng được người dân Pháp tuân thủ.
Điều này thể hiện r qua việc Chính phủ
Pháp năm 2 đã quy định phải sử dụng
tiếng Anh trong hoạt động tại phi trường
De Gaulle Paris để đảm bảo an toàn
không lưu, thế nhưng phi công Pháp vẫn
cứ dùng tiếng Pháp trong trao đổi. Hoặc
năm 1994, Bộ trưởng Giáo dục Pháp
Claude Allègre đã yêu cầu các nhà khoa
học trình bày các kết quả nghiên cứu của
mình bằng tiếng Anh, song tuyệt đại đa số
các tài liệu khoa học Pháp vẫn chỉ viết
bằng tiếng Pháp mà thôi [Mai Thanh
Truyết 2 9].
Với toàn cầu hoá và hội nhập, một
trong những thành tựu quan trọng bậc nhất
là quá trình , tạo nên sự cạnh
tranh bình đẳng, lành mạnh. Trong hội
nhập và toàn cầu hoá kinh tế, công ty nào
yếu kém sẽ bị phá sản, kể cả công ty nhà
16
nước. Trong hội nhập và toàn cầu hoá văn
hoá, những nền văn hoá nào yếu ớt sẽ bị
suy thoái hoặc tiêu vong, còn nền văn hoá
nào có sức sống mãnh liệt dù nhỏ sẽ tồn
tại và phát triển. Trong hội nhập và toàn
cầu hoá ngôn ngữ cũng vậy.
Có thể nói chưa bao giờ ngôn ngữ
được phát triển dân chủ, đa dạng, phong
phú như ngày nay. Nếu như trước đây, việc
“chuẩn hoá ngôn ngữ” quy định lấy tiếng
thủ đô làm chuẩn, thì ngày nay trăm hoa
đua nở, các đài truyền hình địa phương
mọc ra như nấm. Đài biết làm ăn lớn thì
như HTV Đài truyền hình TP. Hồ Chí
Minh , nhỏ thì như BTV Đài truyền hình
Bình Dương đều có thể vươn ảnh hưởng
ra toàn quốc, đưa cách phát âm, cách dùng
từ của địa phương mình hoà nhập vào ngôn
ngữ chung của toàn dân. Nhờ vậy mà một
trong những rào cản văn hoá quan trọng
nhất là ngôn ngữ đang được gỡ bỏ khá
nhanh. Ngày trước người miền này nói
miền kia không hiểu, người thủ đô thì sinh
ra kiêu ngạo tưởng rằng cái gì mình cũng
nhất. Ngày nay, rất nhiều từ ngữ, cách nói
của các địa phương đã thâm nhập vào
phương ngữ Bắc Bộ, rồi đi vào làm giàu
cho ngôn ngữ toàn dân. Cùng với đóng góp
trong lĩnh vực kinh tế và văn hoá, Nam Bộ
đã đóng góp cho ngôn ngữ toàn dân vô số
những từ ngữ và cách nói đặc thù như h t
ý, h t x y, nhậu, x n, lai rai, bông trái, trễ,
, mắc cỡ, v.v.
Không ai phủ nhận rằng xu hướng toàn
cầu hoá ngôn ngữ hiện nay về cơ bản thực
chất là A . Đây đó từng có
những cố gắng chống lại xu hướng này,
nhưng thường kết thúc bằng thất bại vì nó
không đơn thuần chỉ là ngôn ngữ hay văn
hoá mà còn gắn với kinh tế.
Khi Singapore tách khỏi Malaysia vào
năm 196 , hai nước có trình độ phát triển
gần như nhau. Song Thủ tướng Lý Quang
Diệu đã đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ
quốc gia vào năm 197 rồi hoàn tất việc
này vào năm 1984 - và đây là một trong
những yếu tố rất quan trọng giúp đảo
quốc này thành công. Trong khi đó thì
năm 1969 Chính phủ Malaysia ban hành
luật lấy tiếng Bahasa làm ngôn ngữ trong
nhà trường thay cho tiếng Anh để xóa bỏ
tàn dư chủ nghĩa thực dân và hoàn tất việc
này vào năm 1982. Việc làm tốt đẹp đầy
tinh thần dân tộc này của Chính phủ
Malaysia dẫn đến hậu quả là tình trạng
thất nghiệp tăng cao vì nhiều thanh niên
Malaysia không kiếm được việc làm trong
các công ty quốc tế. Tình trạng thất
nghiệp này chỉ bắt đầu thay đổi khi Thủ
tướng Mahathir Mohamad quyết định đưa
tiếng Anh trở lại trường học trước khi ông
mãn nhiệm vào cuối năm 2 2
[Alonesalem 2010].
Nhưng mặt khác, chính tiếng Anh cũng
không phải là ngôn ngữ chiến thắng hoàn
toàn: Tiếng Anh mà thế giới đang dùng
hiện nay đâu có phải là tiếng Anh chính
thống của Vương quốc Anh? Toàn cầu hoá
đã khiến cho tiếng Anh chính thống trong
khi đư q , thì đồng thời cũng ị
đị . Quan niệm “tiếng Anh chuẩn”
từ lâu đã không còn được ai nhắc đến.
Tiếng Anh của nước Anh từ lâu đã khiêm
tốn lui về sống cuộc đời của một phương
ngữ bên cạnh “tiếng Anh Mĩ”, “tiếng Anh
c”, “tiếng Anh n Độ”, “tiếng Anh
Singapor”, “tiếng Anh Trung Quốc”, “tiếng
Anh Nhật Bản”, v.v.
Giữ chân tiếng Anh còn có việc quá
trình toàn cầu hoá đi đôi với
17
như một phản lực , nhờ đó mà các ngôn
ngữ khu vực như tiếng A-rập, tiếng
Hoa,... cũng trở nên lớn mạnh. Cùng với
nó, những cường quốc như Trung Quốc có
chính sách rất r ràng trong việc phát triển
tiếng Hoa làm sức mạnh mềm. Từ năm
2 3, Trung Quốc bỏ tiền tổ chức “N
Q ” ở một số nước: Pháp
(2003), I-ta-li-a 2 6 , Nga 2 7 rồi tiếp
theo là Tây Ban Nha, Hy Lạp Từ năm
2 4, Trung Quốc mở Họ K ử
nhằm phổ biến tiếng Hoa học viện đầu
tiên mở tại Seoul , bảo vệ địa vị thế giới
của tiếng Hoa, truyền bá văn hoá Trung
Hoa, tăng cường nhận thức về Trung Quốc.
Đến cuối năm 2 8, Trung Quốc đã thành
lập 249 học viện Khổng Tử tại 78 quốc gia
và vùng lãnh thổ Học viện Khổng Tử tại
Việt Nam được phép mở năm 2 9 [BBC
2009; Vietnamnet 2009].
Tất cả những hiện tượng phức tạp đó
tạo nên một thế giằng co, cạnh tranh với
tiếng Anh, làm cho quá trình toàn cầu hoá
ngôn ngữ không chỉ biểu hiện dưới dạng
đ mà còn đi đôi với đ ,
giảm bớt sự mất cân bằng.
Anh ngữ hoá kéo theo lạm dụng tiếng
Anh, sự thâm nhập của tiếng Anh vào ngôn
ngữ dân tộc. Điều đó không hẳn là xấu
hoàn toàn, vì nó làm tăng lựa chọn, tạo
cạnh tranh. Trong quá trình đó, cái gì phù
hợp sẽ được giữ lại và phân hoá, bổ sung
cho ngôn ngữ dân tộc. Cái gì không cần sẽ
bị loại ra. Ví dụ: festival được dùng phổ
biến, vì festival Festival Huế không phải
là ễ Hội Phủ Giày . M w
được dùng phổ biến, vì mọi từ ngữ dịch
( ư đ ử í .. đều hoặc
quá dài, hoặc không chính xác. Nhưng
computer, mouse thì sau một thời gian
dùng đã bị loại ra vì í đủ
thay thế rồi.
3. KẾT LUẬN
Như vậy, nhìn trong tổng thể, việc đặt
vấn đề giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ
trong quan hệ với vấn đề bảo tồn văn hoá
cho thấy những biến đổi về ngôn ngữ dân
tộc trong kỉ nguyên hội nhập là hiện tượng
mang tính .
nên không thể và không nên
chọn thái độ tự vệ chống lại, mà nên đối
mặt và chấp nhận.
Mang tính nên việc phát huy
mặt tích cực của nó cần coi trọng ngang
với việc chuẩn hoá, giữ gìn. Văn hoá và
ngôn ngữ là tài sản của toàn dân, nên việc
chuẩn hoá phải được tiến hành hết sức thận
trọng, không chỉ trên cơ sở q ê
ứ ọ và ò q đị
í q , mà còn phải tôn trọng
đ đ , cả trẻ lẫn già, cả
bình dân lẫn bác học.
Đừng vội coi tất cả những thứ không
bình thường là sai chuẩn, mà cần xem độ
phổ biến của hiện tượng đó đến mức nào,
khuynh hướng của nó ra sao. Đừng nên quá
lo lắng và phóng đại các nguy cơ: ngôn
ngữ như một cơ thể sống luôn biết tự nó
điều chỉnh.
18
Chú thích:
(1)
Liên Xô từng rất chú trọng phát huy ảnh hưởng của mình thông qua việc truyền bá
tiếng Nga với việc đầu tư cho những tổ chức như МАПРЯЛ (Международная
Ассоциация Преподавателей Русского Языка и Литературы - Hiệp hội Quốc tế Giáo
viên Ngôn ngữ và Văn học Nga .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Minh Nhân, 2009: C ờ . – Báo “Thế giới & Việt Nam”,
Ngu/Cai_tat_yeu_thoi_toan_cau_hoa/
2. Xaluan, 2008: 2 000 q ĩ ễ đ ?
3. Mai Thanh Truyết, 2 9: . -
4. Alonesalem, 2010: N .-
kinh-te-toan-cau-hoa-132614.html
5. BBC, 2009: N Họ K ử. -
6. Vietnamnet, 2009: Họ K ử - “ ” H ? -
Trung-Hoa-876880/