Ðiểm lại tình hình thế giới một năm qua, ông Ðào Việt Trung nhấn mạnh: chiến tranh, xung đột, nạn khủng bố, đói nghèo, dịch bệnh, thiên tai, ma túy, tội phạm xuyên quốc gia. đang tiếp tục đe dọa đến quyền sống, quyền phát triển của hàng triệu người trên thế giới. Là một dân tộc đã trải qua hàng thế kỷ đấu tranh giành độc lập và đang phấn đấu để phát triển nhanh, mạnh mẽ và bền vững, Việt Nam hiểu rõ quyền cao nhất của con người là quyền được sống tự do trong một đất nước hòa bình, độc lập. Xuất phát từ kinh nghiệm của mình, Việt Nam cho rằng cần phải giải quyết một cách toàn diện tất cả các quyền con người. Việc chỉ ưu tiên hoặc tuyệt đối hóa các quyền dân sự, chính trị và một số quyền tự do cá nhân, không quan tâm thích đáng quyền phát triển, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa là cách đề cập phiến diện, không thể hiện đầy đủ, toàn diện các quyền cơ bản của con người.
46 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1798 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Việt Nam khẳng định mục tiêu tất cả vì con người và cho con người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việt Nam khẳng định mục tiêu tất cả vì con người và cho con người
Ngày 14-3, Khóa 61 Ủy ban Nhân quyền LHQ đã khai mạc khóa họp thường niên với sự tham gia của hơn 90 Bộ trưởng Ngoại giao các nước thành viên. Ông Ðào Việt Trung, Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao, Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam đã phát biểu ý kiến tại Phần tham luận cấp cao khóa họp này.
Ðiểm lại tình hình thế giới một năm qua, ông Ðào Việt Trung nhấn mạnh: chiến tranh, xung đột, nạn khủng bố, đói nghèo, dịch bệnh, thiên tai, ma túy, tội phạm xuyên quốc gia... đang tiếp tục đe dọa đến quyền sống, quyền phát triển của hàng triệu người trên thế giới. Là một dân tộc đã trải qua hàng thế kỷ đấu tranh giành độc lập và đang phấn đấu để phát triển nhanh, mạnh mẽ và bền vững, Việt Nam hiểu rõ quyền cao nhất của con người là quyền được sống tự do trong một đất nước hòa bình, độc lập. Xuất phát từ kinh nghiệm của mình, Việt Nam cho rằng cần phải giải quyết một cách toàn diện tất cả các quyền con người. Việc chỉ ưu tiên hoặc tuyệt đối hóa các quyền dân sự, chính trị và một số quyền tự do cá nhân, không quan tâm thích đáng quyền phát triển, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa là cách đề cập phiến diện, không thể hiện đầy đủ, toàn diện các quyền cơ bản của con người.
Trưởng đoàn Việt Nam khẳng định: đối với Việt Nam, bảo đảm quyền con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Việt Nam đều nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", tất cả vì con người và cho con người. Pháp luật Việt Nam bảo đảm và tôn trọng tất cả các quyền con người phù hợp nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế về nhân quyền. Ông Ðào Việt Trung điểm lại những thành tựu về mọi mặt của Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong năm 2004; nhấn mạnh những thành tựu đó khẳng định Nhà nước Việt Nam luôn phấn đấu hết sức mình để bảo đảm cho mọi người dân được hưởng tối đa quyền con người.
Về vấn đề cải tổ Ủy ban Nhân quyền LHQ, Trưởng đoàn Việt Nam nhấn mạnh: Việt Nam cho rằng công việc của Ủy ban Nhân quyền phải được tiến hành một cách cân bằng, không để bị chính trị hóa. Đáng tiếc là trong thời gian qua, Ủy ban Nhân quyền đã quá tập trung vào các quyền dân sự và chính trị, không quan tâm thích đáng đến các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội và quyền phát triển; đồng thời Ủy ban bị một số nước, tổ chức phi chính phủ lạm dụng, biến thành diễn đàn để công kích, gây sức ép các nước đang phát triển. Việt Nam cho rằng đã đến lúc Ủy ban Nhân quyền cần phải được cải tổ về cơ cấu và về cách tiếp cận đối với các vấn đề nhân quyền. Sự đối đầu về ý thức hệ, thái độ "chuẩn mực kép" chính trị hoá cần được thay thế bằng đối thoại và hợp tác. Uỷ ban Nhân quyền phải trở thành một diễn đàn để tất cả các nước, dù lớn hay nhỏ, bắc hay nam cùng nhau trao đổi quan điểm, đối thoại và tìm giải pháp thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền trên thế giới.
Ông Ðào Việt Trung nêu rõ: Việt Nam ủng hộ những nỗ lực thúc đẩy hợp tác quốc tế trong khuôn khổ đa phương và song phương về nhân quyền trên cơ sở đối thoại bình đẳng, xây dựng, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, vì mục tiêu chung là thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người; không sử dụng vấn đề nhân quyền như một công cụ gây đối đầu, gây sức ép chính trị hoặc đặt điều kiện trong quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại... với nước khác. Trên tinh thần đó, Việt Nam sẵn sàng đối thoại và hợp tác với tất cả các nước về các vấn đề nhân quyền cùng quan tâm./.
NGƯỜI PHÁT NGÔN BỘ NGOẠI GIAO VIỆT NAM LÊ DŨNG
TRẢ LỜI PHÓNG VIÊN NGÀY 1 THÁNG 3 NĂM 2005
DPA, Đài tiếng nói Việt Nam, TTXVN, báo Người lao động: Xin cho biết phản ứng của Việt Nam về báo cáo nhân quyền năm 2004 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
Trả lời:
Mặc dù đã ghi nhận những phát triển tích cực ở Việt Nam, nhưng bản báo cáo nhân quyền năm 2004 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vẫn còn những nhận xét không khách quan về tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Chúng tôi hoàn toàn bác bỏ những nhận xét sai trái đó.
Nhà nước Việt Nam luôn phấn đấu để người dân được hưởng ngày một tốt hơn và đầy đủ hơn các quyền con người. Đó cũng chính là cơ sở của mọi chính sách và hoạt động của Nhà nước Việt Nam. Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền, với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Nhà nước Việt Nam đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, các khuôn khổ pháp lý và những thiết chế cần thiết nhằm thực hiện và bảo vệ ngày càng tốt hơn các quyền tự do cũng như các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Mọi nỗ lực của các cơ quan hành pháp và lập pháp đều được tập trung vào mục tiêu này.
Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của các công dân. Mọi tôn giáo mà tổ chức giáo hội có tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo, cơ cấu tổ chức phù hợp với pháp luật Việt Nam đều được phép hoạt động. Nhiều văn bản pháp quy nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo đã được ban hành, mà gần đây nhất là Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành.
Tại Việt Nam không có vấn đề đàn áp tôn giáo, phân biệt đối xử về sắc tộc, không có ai bị giam giữ vì bất đồng chính kiến, chỉ có những người vi phạm pháp luật và bị xử lý theo đúng các quy định của pháp luật Việt Nam.
· Tào Hữu Phùng : Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, ngân sách nhà nước đã có những chuyển biến tích cực. Chính sách động viên của Nhà nước vào ngân sách nhà nước hướng tới sự công bằng, chú trọng bồi dưỡng nguồn thu lâu dài, bảo đảm cho ngân sách nhà nước đáp ứng các nhu cầu phát triển của đất nước; giải quyết hợp lý quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa tập trung vào ngân sách nhà nước và khả năng tích tụ vốn tái đầu tư của các doanh nghiệp. Để nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội cần tập trung vào các giải pháp sau: Động viên hợp lý các nguồn lực của nền kinh tế vào ngân sách nhà nước; chính sách chi ngân sách nhà nước cần tiếp tục được cơ cấu lại theo hướng tiết kiệm, hiệu quả; tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý và điều hành ngân sách nhà nước; tiếp tục kiện toàn hệ thống chính sách thuế theo hướng giảm dần thuế suất, giảm chênh lệch giữa các mức thuế suất; tiếp tục đổi mới các chính sách ưu đãi, hỗ trợ tài chính cho việc thúc đẩy xuất khẩu, xúc tiến thương mại và tìm kiếm thị trường mới; cải cách cơ bản chế độ tiền lương, giải quyết dứt điểm những bất hợp lý trong chính sách tiền lương và thu nhập.
Ba mươi năm trước đây, trên đất nước Việt Nam đã diễn ra một sự kiện lịch sử mang tính thời đại. Cuộc Tổng tiến công Mùa Xuân 1975 đã giành toàn thắng. Thắng lợi của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng đó đã kết thúc cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ vì độc lập dân tộc, vì thống nhất đất nước và chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Thắng lợi vĩ đại ấy đã đi vào lịch sử, nhưng thời gian không thể làm “tắt” đi những “dư chấn” của một chiến công oanh liệt - biểu tượng sáng chói của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan dẫn đến sự xuất hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước là: Về mặt khách quan, những thử thách khắc nghiệt trong lịch sử dựng nước và giữ nước đã hun đúc cho dân tộc Việt Nam bản lĩnh can trường; về mặt chủ quan, đó là hệ quả của quá trình giáo dục tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự cường với tinh thần “Đem sức ta mà giải phóng cho ta” do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây dựng, nuôi dưỡng và phát triển.
Nguyễn Xuân Tảo : Đảng cầm quyền và đạo đức, phong cách của cán bộ, đảng viênĐảng ta là Đảng cầm quyền, đã được khẳng định trên thực tế và được xác định trong Hiến pháp. Điều đó có nghĩa là sự cầm quyền của Đảng được toàn dân, toàn xã hội công nhận và ủng hộ. Khi đã trở thành Đảng cầm quyền, do yêu cầu, nhiều cán bộ đảng viên được Đảng giao nhiệm vụ “cầm quyền”, được giữ những chức vụ nhất định. Gắn với chức vụ là quyền hành, cùng với những chế độ đãi ngộ và phương tiện vật chất kỹ thuật để thực thi nhiệm vụ. Chức quyền ấy là để phục vụ nhân dân, cũng là chịu trách nhiệm trước cách mạng, trước Đảng. Điều quan trọng là trong điều kiện Đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên phải hết sức coi trọng việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng và phong cách công tác đảng, để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng giao phó, nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nếu không quán triệt sâu sắc quan điểm ấy, tinh thần ấy, sẽ rất dễ sa ngã trước sự cám dỗ vật chất, đi đến tha hóa, biến chất, làm biến đổi “tư cách Đảng viên cộng sản”.
Đoàn Nam Đàn : Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng, giáo dục thanh niênVấn đề cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên là quan điểm giáo dục toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng cả “đức” , “tài”, và mối quan hệ giữa hai mặt đó trong quá trình hoàn thiện nhân cách con người. Trong mối quan hệ “đức – tài”, Người coi đạo đức là “gốc”, có ý nghĩa quyết định trong xây dựng con người mới. Vì vậy, cần phải giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, trong đó điểm cốt lõi là phải giáo dục tinh thần trung với nước, với Đảng, hiếu với dân. Bên cạnh đó, thanh niên phải không ngừng học tập để nâng cao hiểu biết, áp dụng kiến thức học được vào việc làm. Phương pháp để giáo dục thanh niên một cách khoa học, phù hợp với thực tế nước ta là: kết hợp chặt chẽ học với hành; kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục thanh niên; phát huy ý thức tự giác, tự giáo dục, tự rèn luyện của thanh niên. Quan điểm giáo dục toàn diện của Hồ Chí Minh đã chỉ cho chúng ta những định hướng chính để đào tạo, giáo dục thanh niên về các mặt phẩm chất, tài năng cùng mối liên hệ giữa các mặt đó để hoàn thiện nhân cách con người mới. Đó cũng là nền tảng tư tưởng và cơ sở lý luận chung để chúng ta vạch ra chiến lược giáo dục thanh niên Việt Nam trong thế kỷ XXI.
Tô Xuân Dân – Hoàng Xuân Nghĩa : Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam
Kinh tế thị trường như là một chế độ kinh tế hay phương thức sản xuất có tính lịch sử, là thành quả của văn minh nhân loại, nó có thể được sử dụng nhằm phục vụ cho sự phát triển và thịnh vượng chung của mọi quốc gia, dân tộc mà không phải là tài sản riêng của chủ nghĩa tư bản, chỉ phục vụ cho riêng chủ nghĩa tư bản. Thoát khỏi giới hạn chỉ làm giàu cho tư bản, kinh tế thị trường sẽ có những mục tiêu và động lực xã hội mới, phù hợp với những đặc tính xã hội hóa vốn có, để trở thành công cụ phát triển kinh tế, phục vụ đắc lực cho việc tạo ra của cải và mang lại sự giàu có chung cho toàn xã hội. Việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn vừa phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nước và những yếu tố tích cực trong giai đoạn phát triển đã qua của chủ nghĩa xã hội kiểu cũ. Đây cũng là sự trùng hợp giữa quy luật khách quan với mong muốn chủ quan, giữa tính tất yếu thời đại với lôgic tiến hoá nội sinh của dân tộc. Nó cũng là con đường để thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn, để thu hẹp khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng hội nhập, phát triển.
Nguyễn Thanh Nga : Kinh tế Việt Nam năm 2004 và giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế năm 2005
Năm 2004, cả công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp nước ta đều có mức tăng trưởng khá. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,3%, chiếm gần 52,1% GDP; nhu cầu tiêu dùng tăng 7,4%, đầu tư trong nước tăng 13,1%; dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh (đạt mức cao nhất kể từ năm 1997); thu ngân sách đạt chỉ tiêu đề ra và tăng 17,4% so với năm 2003; chi ngân sách cho đầu tư phát triển tăng đáng kể (khoảng 30% tổng chi ngân sách nhà nước). Mục tiêu của năm 2005 là: GDP tăng từ 8 – 8,5%, trong đó nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4 – 3,8%, công nghiệp và xây dựng: 10,5 – 11%, dịch vụ: 7,7 – 8,2%. Để đạt những mục tiêu đó, cần nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong thời gian tới theo mấy hướng chính: tập trung vốn đầu tư cho các ngành công nghiệp phụ trợ và phụ liệu; thu hút đầu tư từ nguồn vốn trong nước và nước ngoài vào các ngành dịch vụ; đầu tư để đẩy nhanh tốc độ ra đời chính phủ điện tử và phổ biến rộng rãi thương mại điện tử.
Hà Khanh - Đắc Hưng : Để phát triển mạnh mẽ nguồn lực khoa học và công nghệ nước ta
Chưa bao giờ nguồn lực khoa học và công nghệ đối với sự phát triển lại trở nên quan trọng, cấp thiết như ngày nay. Để phát triển mạnh mẽ nguồn lực khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực và nền tảng của sự phát triển đất nước, chúng ta cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quan điểm chỉ đạo đã nêu trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng về Khoa học và công nghệ, đó là : Phát triển kinh tế, xã hội phải dựa chủ yếu vào khoa học và công nghệ ; phát triển thị trường khoa học và công nghệ là điều kiện để phát triển nhanh khoa học và công nghệ. Tạo cơ chế thuận lợi để xây dựng mối quan hệ mật thiết, gắn bó giữa đào tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển sản xuất thành một khối vững chắc ; mở rộng các hình thức phổ biến và tiếp thu kiến thức mới trên cơ sở làm tốt công tác xã hội hoá các hoạt động khoa học và công nghệ ; bảo đảm quyền tự chủ và phát huy tối đa dân chủ trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Điều quan trọng là chúng ta phải vươn lên làm chủ tri thức, khoa học và công nghệ, trong đó, việc nâng cao hiệu quả quản lý các nguồn lực khoa học và công nghệ có ý nghĩa then chốt .
Hồ Ngọc Luật : Công nghệ thông tin trong đổi mới phương thức tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh
Công nghệ thông tin có vai trò và khả năng rất lớn đối với quá trình đổi mới phương thức sản xuất, kinh doanh. Nhưng việc áp dụng công nghệ thông tin để tổ chức lại công việc không đơn thuần chỉ là dùng công nghệ thông tin hỗ trợ cho hoạt động của tổ chức. Việc đầu tư cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phải được tính toán dựa trên cơ sở quy hoạch đến chi tiết từng bước cải cách hành chính. Cho đến nay, việc đầu tư đầu tiên cho công tác tin học hoá mới là đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị, máy móc; sau đó là đầu tư cho việc xây dựng các loại phần mềm ứng dụng và cuối cùng là xây dựng nội dung thông tin, cơ sở dữ liệu. Để phát huy khả năng của công nghệ thông tin đối với quá trình đổi mới phương thức sản xuất, kinh doanh cần kiện toàn hệ thống chỉ đạo và quản lý nhà nước về công nghệ thông tin từ trung ương tới các địa phương cả về tổ chức và nhân sự để thực hiện đúng phương châm “năng lực quản lý phải theo kịp tốc độ phát triển”. Các doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông tin phải không ngừng hoàn thiện các sản phẩm của mình đi đôi với việc giảm giá thành, nâng cao khả năng cạnh tranh.
Hồ Ngọc Hy : Khắc phục những tư tưởng cản trở việc đổi mới doanh nghiệp nhà nước Chủ trương đổi mới doanh nghiệp nhà nước là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn và quy luật phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, thực tế quá trình sắp xếp, đổi mới, nhất là thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn diễn ra rất chậm chạp. Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do tư tưởng cá nhân, tư tưởng ỷ lại, dựa dẫm vào cơ chế bao cấp. Để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cần: đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xóa bỏ cơ chế bao cấp, bảo hộ, thực hiện tốt quy chế dân chủ, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân...
Vấn đề tâm lý, con người
16:08' 09/09/2004 (GMT+7)
Hội thảo "Tâm lý học trong quản lý đô thị ở TPHCM hiện nay"
Quản lý đô thị đang là vấn đề nổi cộm và khó khăn trong thực tiễn. Với sự đa diện của đời sống đô thị đang biến đổi theo nhiều xu hướng, thì rất cần xem xét vần đề quản lý đô thị từ nhiều góc độ, trong đó không thể bỏ qua yếu tố lợi ích, tâm lý của cộng đồng thị dân.
Nhân tố và quy luật, trạng thái và biểu hiện của tâm lý xã hội, tâm lý trong hoạt động quản lý là một nhân tố cơ sở có ảnh hưởng chi phối tới hiệu quả của hoạt động quản lý đô thị. Để nghiên cứu và tìm hiểu về các khía cạnh khoa học tâm lý trong nhận thức và thực tiễn đang nổi cộm trong quản lý đô thị ở TPHCM, sáng 09.09.2004, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, Sở Khoa học và Công nghệ thành phố đã tổ chức Hội thảo “Tâm lý học trong quản lý đô thị ở TPHCM hiện nay”, với sự tham gia của gần 60 nhà nghiên cứu, nhà khoa học, các nhà giáo dục, sử học, tâm lý học, dân tộc học, văn hóa học…của Trung ương và địa phương, đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau như Những nhân tố tâm lý tác động trong quá trình quản lý đô thị; Đặc điểm của tâm lý thị dân và những vấn đề tâm lý bức xúc liên quan đến quản lý đô thị; Vấn đề quy hoạch, cải cách hành chính, áp lực giao thông, người nhập cư…với tâm lý quản lý đô thị; Những kiến thức tâm lý học cần nâng cao cho đội ngũ cán bộ trong quản lý đô thị…
Có thể thấy rằng, quản lý đô thị có nhiều mặt xét theo cấu trúc đô thị và tiến trình phát triển, nhưng dù cấu trúc vật lý và cấu trúc kinh tế xã hội với các quy luật biến đổi của nó trong không gian đô thị là rất quan trọng và cần phải có hiểu biết về nó, thì trung tâm của đô thị và quản lý đô thị vẫn là con người, những cộng đồng thị dân với toàn bộ nhu cầu, lợi ích, tâm lý, tình cảm, ý thức và vô thức, lý trí và tâm linh, quá khứ và hiện tại, tương lai trong môi trường sống vật lý, sinh học, văn hóa. Chính vì thế, trong quản lý thì vấn đề tâm lý theo nghĩa rộng là vấn đề con người, nhân tố con người, nguồn nhân lực, mục tiêu và động lực của sự phát triển.
Có thể nói, một trong những nguyên nhân cơ bản, quyết định thành bại của hoạt động quản lý đô thị là có hiểu biết hệ thống về tâm lý học quản lý đô thị, những vấn để tâm lý thực tiễn của thị dân và những nhân tố tâm lý, phương pháp tâm lý chi phối hoạt động quản lý của người lãnh đạo.
NHO GIÁO TRONG TƯƠNG LAI PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Phạm Duy Nghĩa(*)
Nho giáo, “một cái nhà đẹp, lâu ngày không ai sửa sang, đến nỗi bị cơn gió bão đánh đổ bẹp xuống” [14, tr.7], tưởng như đã hoang tàn vụn nát trước đủ luồng triết lý Tây phương, liệu có còn giá trị đáng kể gì trong cuộc kiến thiết hệ thống pháp luật Việt Nam. Một câu hỏi lớn, chắc sẽ còn day dứt người đương thời và các thế hệ con cháu mai sau. Bài viết dưới đây bước đầu nghiên cứu vai trò và giới hạn của pháp luật trong những phương cách tác động đến thói quen hành xử của con người, sự tương tác giữa các phương pháp của Nho giáo và phương pháp điều chỉnh của pháp luật, cũng như đưa ra một vài thiển ý góp phần làm cho pháp luật nước ta ngày càng gần hơn với cuộc đời.
I. Đi tìm một chủ thuyết cho pháp luật Việt Nam đương đại
Các giáo trình nhà nước và pháp luật đại cương ngày nay thường hối hả phổ biến những phương thức tổ chức kinh tế, xã hội từ Cộng sản Nguyên thuỷ, xã hội Nô lệ, xã hội Phong kiến, xã hội Tư bản, xã hội Xã hội Chủ nghĩa và tiến tới Cộng sản Chủ nghĩa, thậm chí có lúc “cố gọt bỏ thực tế của dân tộc mình để làm sao nhét nó vào được cái khuôn khổ đã có sẵn ấy” [16, tr.14]. Từ thuyết đó, nảy sinh ra các kiểu nhà nước, các kiểu pháp luật. Khi cắt nghĩa nhà nước và pháp luật, người ta dựa vào triết lý pháp quyền phương Tây, mà không bắt nguồn từ triết lý sống của người Việt Nam về vũ trụ, con người và xã hội. Có những tư duy mới được vay mượn vào nước ta, ví dụ “nhà nước pháp quyền”, nếu chưa biết quy nạp vào đâu, thì cứ theo công thức sáo mòn ấy, không ít người suy luận bừa rằng đó cũng là một kiểu nhà nước. Tuy nhiên giới học thức đúng đắn đã bắt đầu tỉnh ngộ; “pháp luật không chỉ là công cụ” trong tay người cầm quyền [5, tr.177].
Nếu cứ theo khuôn khổ đó, thì điều gì là riêng biệt trong lịch sử phát triển nhà nước và pháp luật Việt Nam. Bên cạnh nền văn hoá Trung Hoa, nền văn hoá pháp luật Việt Nam có những đặc sắc