1. Đặt vấn đề
Quan niệm trong văn học cổ điển Việt
Nam tuy không phong phú và có những
công trình đồ sộ như của Trung Quốc, Ấn
Độ và một số nước khác, nhưng trong suốt
gần mười thế kỷ, ông cha ta đã rất có ý
thức về văn học và đã có nhiều ý kiến cụ
thể, rất có giá trị về văn học. Văn học cổ
điển Việt Nam nói chung và quan niệm văn
học nói riêng, bên cạnh những yếu tố mang
bản sắc Việt, còn chịu ảnh hưởng từ các
quan niệm mỹ học của Trung Hoa, trong
đó Nho giáo và Thiền Lão là tiêu biểu.
Thiền Lão là một khái niệm mà nội
hàm ẩn chứa cả tư tưởng Thiền tông và
Lão Trang xét trên bình diện những điểm
tương đồng vi diệu của hai tư tưởng này.
Từ góc độ mỹ học, trong quá trình tịnh
hành, hòa hợp Thiền Lão đã tạo ra những
phạm trù mỹ học độc đáo và có sức ảnh
hưởng sâu rộng, tiêu biểu như: Tự nhiên,
Hư tĩnh, Tiêu dao, Bình đạm, Vô ngôn.
Trong giới hạn cho phép, bài viết chỉ
nghiên cứu phạm trù mỹ học vô ngôn với
ba nội dung cơ bản: Quan niệm vô ngôn
trong tư tưởng Thiền Lão; Vô ngôn trong
quan niệm văn học cổ Trung Quốc; Vô
ngôn trong quan niệm văn học cổ điển
Việt Nam.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                
11 trang | 
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 737 | Lượt tải: 2
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Vô ngôn trong quan niệm văn học cổ điển Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 (31) - Thaùng 8/2015 
73 
Vô ngôn trong quan niệm văn học cổ điển Việt Nam 
Non-verbal in Vietnamese classic literature conception 
ThS. Lê Đắc Tường 
Trường THPT Duy Tân, Kon Tum 
M.A. Le Dac Tuong 
The Duy Tan High School, Kon Tum 
Tóm tắt 
Vô ngôn trở thành một quy tắc mỹ học Trung Hoa và các nước thuộc khu vực văn hóa chữ Hán. Đề cao 
vô ngôn trong văn chương là quan niệm văn học xuyên suốt thời cổ điển Việt Nam. Vô ngôn không đơn 
thuần là không lời mà hàm chứa tất cả, tạo nên cảnh giới cao nhất của cái đẹp trong văn chương. 
Từ khóa: vô ngôn, Thiền Lão 
Abstract 
Non-verbal becomes an aesthetic rule of China and sinology culture influenced countries. Non-verbal 
notion is highly recommended throughout Vietnamese classic literature. The notion doesn’t completely 
means that it is wordless, but it contains all of meanings which can make up the highest realm of beauty 
in literature. 
Keywords: non-verbal, Chan Lao 
1. Đặt vấn đề 
Quan niệm trong văn học cổ điển Việt 
Nam tuy không phong phú và có những 
công trình đồ sộ như của Trung Quốc, Ấn 
Độ và một số nước khác, nhưng trong suốt 
gần mười thế kỷ, ông cha ta đã rất có ý 
thức về văn học và đã có nhiều ý kiến cụ 
thể, rất có giá trị về văn học. Văn học cổ 
điển Việt Nam nói chung và quan niệm văn 
học nói riêng, bên cạnh những yếu tố mang 
bản sắc Việt, còn chịu ảnh hưởng từ các 
quan niệm mỹ học của Trung Hoa, trong 
đó Nho giáo và Thiền Lão là tiêu biểu. 
Thiền Lão là một khái niệm mà nội 
hàm ẩn chứa cả tư tưởng Thiền tông và 
Lão Trang xét trên bình diện những điểm 
tương đồng vi diệu của hai tư tưởng này. 
Từ góc độ mỹ học, trong quá trình tịnh 
hành, hòa hợp Thiền Lão đã tạo ra những 
phạm trù mỹ học độc đáo và có sức ảnh 
hưởng sâu rộng, tiêu biểu như: Tự nhiên, 
Hư tĩnh, Tiêu dao, Bình đạm, Vô ngôn. 
Trong giới hạn cho phép, bài viết chỉ 
nghiên cứu phạm trù mỹ học vô ngôn với 
ba nội dung cơ bản: Quan niệm vô ngôn 
trong tư tưởng Thiền Lão; Vô ngôn trong 
quan niệm văn học cổ Trung Quốc; Vô 
ngôn trong quan niệm văn học cổ điển 
Việt Nam. 
2. Quan niệm vô ngôn trong tư tưởng 
Thiền Lão 
Lão Trang và Thiền tông thống nhất 
74 
quan niệm về ngôn ngữ. Cả hai đều coi 
trọng cái “ngoài” ngôn ngữ, cái “sau” ngôn 
ngữ. Vì ngôn ngữ chỉ là phương tiện, 
không thể biểu đạt được hết và không thể 
đưa con người đến được với Đạo với chân 
lý giác ngộ. Chính vì thế Thiền Lão coi 
trọng vô ngôn. Vô ngôn được hiểu là 
không lời, không nói, không văn tự. Tuy 
nhiên, vô ngôn không chỉ đơn giản như thế, 
bởi trong đó hàm ẩn rất nhiều ý nghĩa tinh 
tế, uyên áo được rút ra từ quan niệm “Bất 
ngôn chi giáo” của Lão Tử, “Đắc ý vong 
ngôn” của Trang Tử và quan niệm “Bất lập 
văn tự” của Thiền tông. 
Lão Tử chủ trương vô vi, “Bất ngôn 
chi giáo” cũng là một trong những biểu 
hiện của vô vi, trong Đạo Đức kinh, Lão 
Tử hai lần đề cập đến câu này. Ở chương 2, 
ông nói: “ Xử vô vi chi sự, hành bất 
ngôn chi giáo” (Dùng vô vi mà xử sự, dùng 
phương pháp không lời mà dạy dỗ) [1, tr 
144], đến chương 43, ông lại nói: “Bất 
ngôn chi giáo, vô vi chi ích, thiên hạ hi cập 
chi” (Dạy bảo mà không cần đến lời nói, sự 
lợi ích của vô vi, trong thiên hạ ít ai theo 
kịp)[1, tr 215]. Cả hai lần nói về “Bất ngôn 
chi giáo”, Lão Tử đều gắn với vô vi. Như 
vậy phương pháp không dùng lời nói để 
giáo hóa là cách đến được với vô vi, với tự 
nhiên, với đạo. Đạo không thể dùng lời để 
miêu tả “Đạo khả đạo, phi thường Đạo. 
Danh khả danh, phi thường Danh”, vì thế 
chỉ có “Bất ngôn chi giáo” mới có thể hình 
dung, tiếp cận được Đạo. Đó là một trong 
những lý do mà Lão Tử chủ trương “Bất 
ngôn chi giáo”. Cái học về Đạo là dĩ tâm 
truyền tâm vì vậy không thể dùng lời mà 
chỉ có thể cảm thông. Cho nên Lão Tử bảo: 
“Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri” (biết 
thì không nói, nói là không biết). Đây là 
một trong những nét nghĩa của vô ngôn. 
Đạo học là tâm học, vì vậy không thể dạy 
được bằng lời nói, chỉ có thể dùng lời để 
khêu gợi, người học đạo phải tự mình tìm 
ra chân lý. Bởi vậy, Lão Tử lại nói: “Đa 
ngôn sổ cùng, bất như thủ trung” (Nói 
nhiều bao nhiêu cũng không sao nói hết 
được, thà là giữ lấy mực trung)[1, tr 58]. 
Đây là nét nghĩa tiếp theo của vô ngôn. 
“Bất ngôn chi giáo” còn được Lão Tử nói 
cách khác: “Hy ngôn tự nhiên”. Ít nói để tự 
nhiên, nói mà như không nói, đó cũng là 
một nét nghĩa nữa của vô ngôn. 
“Bất ngôn chi giáo” của Lão Tử với 
những nét nghĩa hàm chứa trong phạm trù 
vô ngôn cũng đã được Trang Tử quan 
niệm. Thiên Đức phù sung trong Nam Hoa 
kinh là thiên mà Trang Tử dùng để giải 
nghĩa “Bất ngôn chi giáo” của Lão Tử. 
Giống như Lão Tử, Trang Tử cho rằng, 
không dùng lời để dạy mà dân tự hóa mới 
là mục đích, mới thực sự là vô vi: “ Đức 
sung ư nội, nhi nhơn hóa ư ngoại, tự nhiên 
cảm hóa bất đãi giáo ngôn giả dã” (Đức 
mà đầy đủ nơi trong, thì người ở ngoài 
được hóa, tự nhiên được cảm hóa, không 
cần phải dùng đến lời mà dạy). Ông cũng 
cho rằng, Đạo không thể diễn tả bằng lời, 
chỉ có thể dĩ tâm truyền tâm, vì thế ông 
nói: “Kẻ hỏi Đạo cũng như người đáp lại 
đều là những kẻ không hiểu về Đạo”[2, tr 
271]. Đặc biệt, Trang Tử đã thống nhất với 
Lão Tử về “bất ngôn” khi ông chủ trương 
“vong ngôn”. Ông cho rằng, ngôn ngữ chỉ 
là phương tiện để đạt được chân lý, khi đạt 
được chân lý rồi thì quên ngôn ngữ đi: 
"Dùng đó là để bắt cá, được cá rồi thì nên 
quên đó đi. Dùng lưới để bắt thỏ, được thỏ 
rồi thì nên quên lưới đi. Dùng lời là để 
diễn ý, hiểu được ý rồi thì nên quên lời 
đi"[2, tr 229]. Bất ngôn của Lão Tử hay 
vong ngôn của Trang Tử đều có những nét 
nghĩa của vô ngôn như đã nói ở trên. 
Thiền tông được xem là sản phẩm của 
75 
cuộc gặp gỡ diệu kỳ giữa Phật giáo Ấn Độ 
và Lão Trang. Bởi vậy, Thiền tông mang 
tinh thần vô ngôn ở cả hai. 
Tinh thần vô ngôn trong Phật giáo Ấn 
Độ thể hiện ở hai điểm. Thứ nhất, khi đã 
thành Phật và sau hơn 40 năm thuyết pháp, 
trước khi nhập niết bàn, đức Phật Thích Ca 
Mâu Ni đã dạy các đệ tử rằng: Ta chưa nói 
lời nào. Phật còn dạy: “Nhất thiết tu-đa-la 
giáo như tiêu nguyệt chỉ”. Hai lời dạy của 
đức Phật thể hiện rõ quan niệm vô ngôn 
trong tư tưởng Phật giáo nguyên thủy. Thứ 
hai, trong nhiều câu chuyện về Phật giáo, 
sự tích niêm hoa vi tiếu được nhiều người 
biết đến. Trong sự tích này, đức Phật 
không nói một lời nào, chỉ đưa cành hoa 
lên trước đại chúng, nhưng đại trưởng lão 
Ma ha Ca diếp mỉm cười. Đây là tiền thân 
của phương pháp dĩ tâm truyền tâm mà sau 
này Thiền tông đã kế thừa. Sự tích này 
cũng đã nói lên quan niệm vô ngôn trong 
Phật giáo. 
Đến Thiền tông, với hai biểu hiện của 
vô ngôn như đã nói của Phật giáo Ấn Độ 
cùng với quan niệm vô ngôn của Lão 
Trang với “bất ngôn chi giáo” của Lão Tử 
và “đắc ý vong ngôn” của Trang Tử đã 
hình thành quan niệm “bất lập văn tự”. 
Quan niệm này hàm chứa tất cả ý nghĩa vô 
ngôn như đã trình bày ở trên. Từ đó vô 
ngôn trở thành quan niệm hết sức uyên áo 
của Đạo học phương Đông, sức ảnh hưởng 
của nó vô cùng to lớn không chỉ về mặt tư 
tưởng mà còn trong lĩnh vực nghệ thuật 
như âm nhạc, hội họa, đặc biệt là văn 
chương. 
3. Vô ngôn trong quan niệm văn học 
cổ Trung Quốc 
Nghệ thuật phương Đông nói chung 
và văn chương nói riêng thường chú trọng 
cái ở ngoài lời, vừa giàu tính liên tưởng, 
vừa hàm chứa nhiều tầng nghĩa vừa khơi 
gợi trí tưởng tượng, sự khám phá nơi người 
đọc. Cho nên, ý nghĩa của văn chương, đặc 
biệt là trong thơ, không phải là cái biểu 
hiện trên bề mặt ngôn ngữ mà là ở khoảng 
không im lặng, ở chỗ không lời. Cái làm 
nên vẻ đẹp của tác phẩm văn chương 
không phải là nói ra đầy đủ, mà phải làm 
như thiếu sót, bỏ quên,...Một nghệ sĩ có tài 
cần phải biết im lặng, bỏ lửng, tạo tính mơ 
hồ,... Có như vậy, từ chính khoảng trống 
im lặng đó, ý nghĩa của văn chương mới 
vươn đến cảnh giới vô hạn. 
Trung Quốc là trung tâm của nghệ 
thuật phương Đông, từ ảnh hưởng của 
Thiền Lão, quan niệm vô ngôn trong văn 
học cổ nói chung và trong quan niệm văn 
học nói riêng rất được quan tâm. 
Ngay từ thời Ngụy Tấn, thời kỳ được 
xem là giai đoạn khởi phát và hình thành 
nền lý luận, phê bình văn học cổ Trung 
Quốc, quan niệm vô ngôn đã được Lục Cơ 
đề cập. Và từ đó quan niệm này dần trở 
thành tiêu chuẩn nghệ thuật cơ bản vào 
thời Đường, Tống và kéo dài cho đến thời 
nhà Thanh. 
Mở đầu Văn phú, Lục Cơ viết:“Hằng 
hoạn ý bất xứng vật, văn bất đãi”(thường 
lo ý không xứng với vật, văn không theo 
kịp ý), ông lại nói: “Chí ư thao phủ phạt 
kha, tuy thủ tắc bất viễn, nhược phù tùy 
thủ chi biến, lương nan dĩ từ đãi” (Đến 
như cầm rìu đẽo cán, dẫu mẫu mực chẳng 
xa, nhưng mỗi tay mỗi khác, từ ngữ thì 
khó mà theo kịp để truyền đạt)[5, tr 41]. 
Hai câu mở đầu của Văn phú đề cập đến 
vấn đề ngôn ngữ trong văn chương, đều nói 
về “ngôn bất tận ý”. 
Tương tự, Đào Uyên Minh, nhà thơ 
nổi tiếng thời Đông Tấn cũng có quan niệm 
về “ngôn bất tận ý”, ông nói “thử trung 
hữu chân ý, dục biện dĩ vong ngôn” (trong 
lòng có chân ý muốn nói e không đủ 
76 
lời)[Dương Minh, 8, tr 73]. 
Lưu Hiệp, Chung Vinh là hai nhà lý 
luận có thể xem là đặt nền móng cho nền lý 
luận, phê bình văn học cổ Trung Quốc 
cũng đề cao quan niệm vô ngôn. 
Với Lưu Hiệp đó là quan niệm “ý tại 
ngôn ngoại” trong thiên Ẩn tú và Thể tính. 
Theo Lưu Hiệp, tinh hoa của văn chương là 
ở ẩn và tú. Ông quan niệm: “Ẩn dã giả, 
văn ngoại chi trọng chi giả dã; tú dã giả, 
thiên trung chi độc bạt giả dã” (Ẩn là cái 
nghĩa ngoài văn, tú là cái nổi bật trong toàn 
bài. Ẩn khéo ở chỗ có nhiều hàm nghĩa, tú 
hay ở chỗ đẹp hơn bình thường)[4, tr 446]. 
Như vậy ẩn, tức là ý tại ngôn ngoại, là tinh 
túy của văn chương, tạo nên dư vị vô cùng 
trong văn chương. Cũng từ đó, tạo ra 
phong cách “viễn áo”, một trong tám loại 
phong cách văn chương theo quan niệm 
của Lưu Hiệp. Theo ông, phong cách viễn 
áo thể hiện ở sự ẩn ý, thâm sâu ngoài ngôn 
ngữ và phong cách này học theo lối huyền 
học của Đạo gia: “viễn áo là sâu xa, ý ẩn 
không lộ rõ, văn thái mẫu mực, học theo 
lối huyền diệu của Đạo gia”[4, tr 337]. 
Chung Vinh, trong Thi phẩm, cũng đã 
bàn đến vô ngôn ở góc độ “ý tại ngôn 
ngoại”. Khi bàn về thơ tứ ngôn, ông nói: “ 
Phù tứ ngôn, văn ước ý quảng” (Phàm thể 
thơ tứ ngôn lời ít ý nhiều)[12, tr 50]. Luận 
về thơ, ông cho rằng thơ gồm có ba nghĩa 
là hứng, tỷ, phú. Trong đó ông cho rằng 
hứng là “ngôn bất tận ý”: “Văn dĩ tận nhi ý 
hữu dư, hứng dã”(Lời tuy hết mà ý vô 
cùng)[12, tr 52]. Bình phẩm về cổ thi, 
Chung Vinh cho rằng: “Kỳ thể nguyên xuất 
ư Quốc phong. Lục Cơ sở nghĩ thạo tứ thủ, 
văn ôn dĩ lệ, ý bi nhi viễn, kinh tâm động 
phách, khả vị cô hồ nhát tự thiên kim” (Cổ 
thi khởi nguồn từ Quốc phong trong Kinh 
thi. 14 bài do Lục Cơ mô phỏng, lời ôn hòa 
đẹp đẽ, ý bi thiết xa xăm, đọc lên khiến 
người đọc hồn xiêu phách lạc, có thể nói 
một chữ đáng giá ngàn vàng). Lời nhận xét 
này có hai ý, một là ý bi thiết xa xăm là nói 
đến ý ở ngoài lời. Hai là một chữ đáng giá 
ngàn vàng, chữ (tự), ở đây không phải là 
mặt chữ mà là giá trị ý nghĩa của chữ đó. 
Điều đó có nghĩa là Chung Vinh đề cao cái 
giá trị bên kia của ngôn từ, đề cao “ý tại 
ngôn ngoại”. 
Đến đời Đường, vô ngôn là một trong 
những đặc trưng của ngôn ngữ thơ Đường, 
thể hiện ở phương thức “gợi, không tả”, ở 
“khoảng lặng, mờ” “ngôn hữu hạn, ý vô 
cùng”,... Một số thi nhân thời Đường như 
Tư Không Đồ, Thích Hiệu Nhiên,... đã bày 
tỏ quan niệm trực tiếp về vấn đề này. Đó 
cũng là cách nói “tượng ở ngoài tượng, 
cảnh ở ngoài cảnh” của Tư Không Đồ khi 
bàn về tính hàm súc của thi ca: “Cảnh của 
nhà thơ tuyệt vời như cảnh mặt trời Lam 
Điền chiếu soi ấm áp, như ngọc tốt nhả 
khói mơ màng, có thể nhìn thấy nhưng 
không thể đặt nó ngay ở trước mắt được”. 
Đồng thời ông cũng cho làm văn phải “vận 
ngoại chi chi” (phải đạt đến chỗ tuyệt diệu 
ở ngoài vần), “vị ngoại chi chỉ” (ý vị ở 
ngoài vị)[10, tr 192-194]. Thích Hiệu 
Nhiên khi luận thơ cũng có quan niệm “ý 
tạo ngôn ngoại”. Ông quan niệm: “Tác 
dụng của thơ là xuất ý phải hiểm, đặt câu 
phải khó, tuy phát từ lòng ta nhưng biểu 
hiện như thần. Đến như những câu thơ có 
cốt cách cao vời vợi tranh quyền Tạo hóa 
thì chỉ có thể cảm được ý sâu xa chứ không 
thể nói rõ hình trạng, riêng người viết ra 
nó mới biết mà thôi.” Ông lại cho rằng 
“thơ của Khang Lạc đạt đến cực điểm, 
phải chăng được đạo của Không vương trợ 
giúp”. Từ đó ông đưa ra quan niệm: “Hai 
lời trên đều là ý tại ngôn ngoại, nếu gặp 
được bậc cao thủ như ông Khang Lạc lãm 
sát thì chỉ cần nhận biết bản ý bên trong, 
77 
không cố chấp câu chữ bên ngoài, vì đã 
đạt đến cực điểm của đạo”[Cố Dịch Sinh, 
8, tr 161]. 
Đến đời Tống, vô ngôn đã trở thành 
tiêu chuẩn nghệ thuật cơ bản. Trong 
Thương Lang thi thoại, Nghiêm Vũ có nói 
“ngôn hữu tận nhi ý vô cùng” khi ca ngợi 
các thi nhân thời thịnh Đường: “Các thi 
nhân thời thịnh Đường riêng ở chỗ hứng 
thú, như linh dương móc sừng lên cây, 
không thấy dấu vết. Cho nên thơ ấy đạt đến 
chỗ kỳ diệu, thấu triệt lung linh không thế 
dò được. Như âm thanh không trung, sắc 
màu hình tướng, vầng trăng đáy nước, 
bóng dáng trong gương, lời đã hết mà ý vô 
cùng”[5, tr 112]. 
Trong Lục nhất thi thoại của Âu 
Dương Tu có dẫn lời của Mai Nghiêu 
Thần: “Hàm bất tận chi ý, kiến ư ngôn 
ngoại, nhiên hậu chí hỉ” (hàm chứa ý nghĩ 
sâu xa, bộc lộ ra ngoài lời nói đạt đến sự 
mong muốn)[6, tr 591]. Dù là dẫn lời, 
nhưng qua đó cho thấy Âu Dương Tu rất 
coi trọng “ý tại ngôn ngoại” trong văn 
chương. Chính ông đã ca ngợi thơ Mai 
Nghiêu Thần là ý tứ sâu rộng, tinh tế, thâm 
sâu khi ông luận thơ của Mai Nghiêu Thần, 
Tô Tuấn Khâm: “Thánh Du, Tử Mĩ nổi 
danh ở thơ, mà hai nhà thơ này khác nhau 
về thể, Tử Mĩ bút lực mạnh mẽ, tung hoành 
ngang dọc lạ kỳ, Thánh Du ý tứ sâu rộng, 
tinh tế, lấy thâm sâu nhàn đàm làm ý. Mỗi 
người đều có cái hay riêng chỉ có thể luận 
bàn những điểm hay, không thể phẩm bình 
hơn kém”[Cố Dịch Sinh, 8, tr 186]. 
Đến đời Thanh có thuyết Thần vận 
của Vương Sỹ Chân cũng bày tỏ quan niệm 
“ý tại ngôn ngoại” trong văn chương. Kế 
thừa quan niệm thần vận của các tác giả 
trước với đặc trưng là “Hàm súc thâm viễn, 
ý dư ngôn ngoại”, Vương Sĩ Chân xây 
dựng thuyết Thần vận với yêu cầu về 
phong cách: “tự nhiên, siêu diệu, hàm súc 
tuyển vĩnh” (tự nhiên, siêu việt, kỳ diệu, 
hàm súc, ý vị sâu xa)[5, tr 132]. 
Vô ngôn trong quan niệm văn học cổ 
Trung Quốc từ thời Ngụy Tấn đến thời 
Thanh không chỉ là yếu tố thẩm mỹ mà 
theo thời gian, vô ngôn đã trở thành lý 
tưởng thẩm mỹ, phong cách nghệ thuật và 
trở thành nét truyền thống trong văn học cổ 
Trung Quốc. Về mặt mỹ học, vô ngôn ở 
Trung Quốc có ảnh hưởng đến “yosei” (dư 
tình) của Nhật Bản. Yosei xuất hiện ở Nhật 
Bản từ thế kỷ XI và trở thành khái niệm 
quan trọng, cơ bản nhất của nền mỹ thuật 
và văn học Nhật Bản. Theo tiếng Hán thì 
khái niệm này có nghĩa là “cái tình ý còn 
dư ba” hay là “hàm ý”. Dư tình còn được 
hiểu như là “ý ở ngoài lời”. Như vậy vô 
ngôn của Trung Quốc đã ảnh hưởng đến dư 
tình của Nhật Bản. Cả hai cơ bản có cùng 
một ý nghĩa và đều có sự ảnh hưởng lan 
tỏa rộng lớn. 
4. Vô ngôn trong quan niệm văn học 
cổ điển Việt Nam 
Vô ngôn trong quan niệm văn học cổ 
điển Việt Nam biểu hiện khá đa dạng và 
xuyên suốt. Vì vậy, để có cái nhìn tương 
đối toàn diện, chúng tôi tìm hiểu quan niệm 
vô ngôn trong văn học cổ điển trên hai thời 
kỳ. Thời kỳ văn học thời Lý, Trần gắn với 
kiểu tác giả Thiền sư, quý tộc. Thời kỳ văn 
học từ Hậu Lê đến Nguyễn, gắn với kiểu 
tác giả nhà văn-nhà nho. 
4.1. Quan niệm vô ngôn trong kiểu 
tác giả Thiền sư, quý tộc thời Lý, Trần 
Kiểu tác giả Thiền sư, quý tộc ở đây chỉ 
giới hạn ở một số tác giả mà trong thơ văn 
của họ có đề cập đến quan niệm vô ngôn. 
Quan niệm “vô” trong Thiền tông hết 
sức uyên áo, nhiều sắc thái như vô tâm, vô 
niệm, vô ngã, vô tướng, vô pháp, vô lự, vô 
sự, Vô ngôn cũng là một đặc sản của 
78 
Thiền tông. Thiền tông không dùng lời nói 
làm phương tiện để dạy dỗ, truyền đạo, 
Thiền tông dĩ tâm truyền tâm, vì vậy vô 
ngôn là quan niệm cốt tử của các Thiền sư. 
Ni sư Diệu Nhân và Tuệ Trung 
Thượng sĩ đồng quan niệm khi cho rằng, 
dùng lời nói làm phương tiện để cầu Thiền, 
niệm Phật là mê lầm. Vô ngôn mới thật sự 
quan trọng để đạt được cảnh giới cao nhất, 
mới giác ngộ, đạt đạo. Ni sư Diệu Nhân, 
trước khi viên tịch đã thấu được lẽ sinh, 
lão, bệnh, tử của đời người. Dù là người 
đứng đầu dòng Thiền Nam phương, quan 
niệm về Phật và Thiền của Ni sư mang tính 
phá chấp, chỉ có vô ngôn mới có được giải 
thoát, mới là Thiền, là Phật: 
Mê chi cầu Phật, 
Hoặc chi cầu Thiền. 
Thiền Phật bất cầu, 
Đỗ khẩu vô nghiên (ngôn) 
(Thị tịch kệ) 
Dịch thơ: 
Vì lầm cầu Phật thế thôi 
Cầu Thiền bởi trót mê lời u mê 
Cầu Thiền cầu Phật mà chi 
Ngồi im chả nói năng gì là hơn 
(Nguyễn Duy dịch) 
Cũng với tinh thần phá chấp đó, trong 
bài thơ Ngẫu tác (I), Tuệ Trung Thượng sĩ 
đã gắn vô ngôn với sự an nhiên, tự tại, tiêu 
dao của một con người đã thoát tục, ngộ 
đạo. Với Tuệ Trung, đã vô ngôn ( ngộ đạo) 
rồi thì không cần quan tâm bất kỳ thứ gì, 
kể cả Thiền, Phật: 
Ðường trung đoan tọa tịch vô nghiên, 
Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên. 
Tự thị quyện thời tâm tự tức, 
Bất quan nhiếp niệm bất quan thiền. 
(Ngồi ngay giữa nhà lặng yên không nói, 
Nhàn nhã ngắm một làn khói bay lên trên 
núi Côn Luân. 
Khi nào tự thấy mệt mỏi thì tâm tự nghỉ ngơi, 
Không cầu niệm cũng không cầu thiền.) 
Chính quan niệm vô ngôn, nên dĩ tâm 
truyền tâm là phương thức duy nhất để 
Thiền tồn tại và lan tỏa. Đã lấy tâm truyền 
tâm rồi thì ngôn ngữ không còn ý nghĩa gì, 
nếu có lấy ngôn ngữ để truyền tâm cũng 
chỉ dành cho những hạng người si độn 
trong vườn Thiền. Tịnh Giới Thiền sư đã 
cười vào việc làm đó: 
Thu lai lương khí sảng hung khâm, 
Bát đấu tài cao đối nguyệt ngâm. 
Kham tiếu thiền gia si độn khách, 
Vi hà tương ngữ dĩ truyền tâm. 
(Thị tịch) 
Dịch thơ: 
Ngực áo thu về khí lạnh xâm, 
Tài ngang tám đấu đối trăng ngâm. 
Cười bấy khách thiền ai dại dột, 
Sao đem lời lẽ để truyền tâm. 
(Lê Mạnh Thát dịch) 
Vô ngôn không chỉ là không nói, đối 
với các Thiền sư, vô ngôn còn thể hiện ở 
nói, nhưng nói theo kiểu của Thiền sư. Đó 
có thể là tiếng “đốt” trong Phàm thánh bất 
dị và Trữ từ tự cảnh văn, tiếng “hát” trong 
Phật tâm ca, tiếng “ha ha” trong Tâm 
vương của Tuệ Trung Thượng sĩ, đó có thể 
là “nhất thanh” trong Ngôn hoài của Không 
Lộ Thiền sư. Những âm thanh đó, có âm 
nhưng không có lời, âm thanh đó thay cho 
vạn lời nói vì âm thanh đó là tột đỉnh của 
vô ngôn, âm thanh của sự giác ngộ: 
Hữu thời trực thượng Cô Phong Đính, 
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư. 
(Ngôn hoài- Không Lộ Thiền sư) 
Đó cũng là âm thanh của Lý Cao, một 
thi nhân, triết gia thời Đường trong bài 
Tặng Dược Sơn (2): 
Hữu thời trực thướng cô phong đảnh, 
Nguyệt hạ phi vân khiếu nhất thinh. 
Tinh thần vô ngôn và triết lý Thiền 
của hai thi nhân, Thiền sư gặp nhau. Ở đó 
79 
cả hai đều “nhất thanh” nhưng dụng của nó 
thì vô cùng. Có thể đó là sự giác ngộ tính 
Phật, là triết lý Thiền cũng có thể là tinh 
thần tự tại trong cõi đời tạm bợ, 
Vô ngôn không chỉ là không nói, là dĩ 
tâm truyền tâm, mà còn là ý nghĩa ẩn sau 
ngôn ngữ, là những khoảng lặng, khoảng 
mờ có sức gợi mở to lớn. Vì vậy, các Thiền 
thi xem ngôn ngữ có tính chất hữu hạn, chỉ 
có vô ngôn mới thể hiện được sự vô hạn, ý 
nghĩa kỳ diệu của đạo Thiền. Hình ảnh 
“nhất chi mai” trong bài thơ Cáo tật thị 
chúng của Mãn Giác Thiền sư là minh 
chứng cho điều này. Bài thơ là sự giác ngộ 
thấu triệt về quy luật vô thường của tạo 
hóa, trong đó có sự vô thường của thiên 
nhiên và con người. Chỉ duy nhất cái còn 
lại, thường hằng, đó là chân tánh, Phật tính. 
“Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”, bí ẩn như 
một câu thần chú, là hình tượng vô ngôn có 
tác dụng gợi để người đọc thể ngộ ra tính