Vụ kiện về vận đơn giữa công ty SH Bình Dương và công ty Epe Australia

Cuối năm 2006, Công ty SH Bình Dương ký hợp đồng bán một container (2.970 túi xách và ba-lô) cho Công ty Explore Planet Earth (EPE) Sydney, Australia theo giá FOB TP. Hồ Chí Minh 87.035 USD. Hợp đồng mua bán chỉ có một trang và hết sức sơ sài lỏng lẻo: Không quy định nguồn luật áp dụng, không thỏa thuận chế tài giải quyết tranh chấp, không nói gì về việc thưởng phạt giao hàng, thanh toán nhanh chậm, không đề cập đến khi nào quyền sở hữu chuyển từ người bán sang người mua. Điều kiện thanh toán là TT sau 60 ngày kể từ ngày giao hàng. EPE ủy thác Công ty Giao nhận Vận tải Tonkin ở Hải Phòng thuê tàu chở hàng từ TP. Hồ Chí Minh đi Sydney. Tonkin ký Booking Note với Hãng tàu MOL. Ngày 20/12/2006, hàng được bốc lên tàu tại TP. Hồ Chí Minh. MOL cấp vận đơn chủ (Master B/L) cho Tonkin, trên cơ sở đó Tonkin cấp vận đơn thứ cấp (House B/L) cho SH người gửi hàng (vận đơn của Tonkin theo mẫu FIATA), trong đó ghi rõ EPE là người nhận hàng (xem mẫu kèm theo).

doc24 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2957 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vụ kiện về vận đơn giữa công ty SH Bình Dương và công ty Epe Australia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐHQG TP HCM MÔN: Vận Tải Bảo Hiểm ĐH KINH TẾ - LUẬT Ngày: 26/5/2010 & GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Hoàng Lâm Cường NHÓM THỰC HIỆN: Vũ Nguyên Quốc K07.402.0353 Huỳnh Thị Trường K07.402.0379 Lê Thục Oanh Tâm K07.402.0327 Lê Huỳnh Ngọc Phú K07.402.0349 Nguyễn Ngọc Mai K07.402.0326 Võ Thị Bích Ngọc K07.402.0338 Nguyễn Tuấn Anh K07.402.0273 Lê Thị Minh Thùy K07.402.0370 Trần Trung Quân K07.402.0351 Phạm Thanh Nga K07.402.0334 MỤC LỤC Phần I: Tóm Tắt Vụ Kiện Tóm tắt: Cuối năm 2006, Công ty SH Bình Dương ký hợp đồng bán một container (2.970 túi xách và ba-lô) cho Công ty Explore Planet Earth (EPE) Sydney, Australia theo giá FOB TP. Hồ Chí Minh 87.035 USD. Hợp đồng mua bán chỉ có một trang và hết sức sơ sài lỏng lẻo: Không quy định nguồn luật áp dụng, không thỏa thuận chế tài giải quyết tranh chấp, không nói gì về việc thưởng phạt giao hàng, thanh toán nhanh chậm, không đề cập đến khi nào quyền sở hữu chuyển từ người bán sang người mua. Điều kiện thanh toán là TT sau 60 ngày kể từ ngày giao hàng. EPE ủy thác Công ty Giao nhận Vận tải Tonkin ở Hải Phòng thuê tàu chở hàng từ TP. Hồ Chí Minh đi Sydney. Tonkin ký Booking Note với Hãng tàu MOL. Ngày 20/12/2006, hàng được bốc lên tàu tại TP. Hồ Chí Minh. MOL cấp vận đơn chủ (Master B/L) cho Tonkin, trên cơ sở đó Tonkin cấp vận đơn thứ cấp (House B/L) cho SH người gửi hàng (vận đơn của Tonkin theo mẫu FIATA), trong đó ghi rõ EPE là người nhận hàng (xem mẫu kèm theo). Hàng đến Sydney 06/01/2007. MOL giao cho đại lý Tonkin ngày 14/01/2007. Từ đó trở đi EPE không đến lấy hàng. Phí lưu kho, phạt lưu container lên đến 19.000 AU$, hàng hóa có nguy cơ hư hỏng hoàn toàn. Theo tập quán và luật pháp Australia (tương tự như ở Việt Nam), ngày 01/3/2007, đại lý Tonkin đã đưa hàng vào kho ngoại quan của Hải quan Sydney để xử lý. Mãi tới 14/4/2007, SH mới ra lệnh cho Tonkin đưa hàng về Việt Nam, nhưng Tonkin không thể thực hiện được vì hàng đã đưa vào kho ngoại quan, hơn nữa đây là vận đơn đích danh nên SH không thể đơn giản ra lệnh chở hàng về. Ngày 04/5/2007, EPE đã đến kho ngoại quan nhận hàng, đại lý Tonkin không thu hồi vận đơn gốc. Từ đó trở đi SH luôn khẳng định rằng tuy hàng bán FOB nhưng với vận đơn gốc trong tay, SH vẫn là chủ sở hữu lô hàng và hoàn toàn có quyền ra lệnh giao hàng hay vận chuyển về Việt Nam. Không đòi được tiền hàng từ EPE, SH đã khởi kiện Tonkin tại Tòa án dân sự TP. Hải Phòng, đòi bồi thường 1,7 tỷ VNĐ, bao gồm trị giá hàng 87.035 USD và khoảng 350 triệu VNĐ các loại tiền phạt do vi phạm thủ tục hải quan. Hợp đồng mua bán giữa SH với EPE và Vận đơn đường biển(House Bill): SALES CONTRACT NO: EPE-SH-2006-01 DATE: OCT 1 ,2006 SELLER: S.H. VIETNAM CO.,LTD 161/46 1K HIGHWAY, DONG HOA VILLAGE, DI AN TEL:84-650-751-831 DISTRICT,BINH DUONG PROVINCE, VIETNAM. FAX: 84-650-781-360 BUYER: EXPLORE PLANET EARTH PTY LTD ABN 29 112 052 554 UNIT 3 154 ORIORDAN STREET MASCOT NSW 2020 AUSTRALIA TEL: 61 2 8335 6999 It has been mutually agreed that the Buyer agrees to buy and the Seller agrees to sell the Commodity on the terms ans conditions Specified here under: Artical 1: Commodity- Quantity- Unit price- Amount: NO DESCRIPTION OF GOODS SIZE QUANTITY U.PRICE - USD AMOUNT - USD BACK PACKS FOB HOCHIMINH 1 PALLOOKA 90 1125,00 PCS 33365 37535,63 2 PALLOOKA 75 550,00 PCS 20000 11000,00 3 PALLOOKA 65 550,00 PCS 30000 16500,00 4 EXODUS 75 225,00 PCS 30900 6952,50 5 EXODUS 65 500,00 PCS 29700 14850,00 6 PALLOOKA DAYPACK 20,00 PCS 23344 466,88 TOTAL 2970 PCS 87305,00 Artical 2: Quality: Quality of goods will be based onthe sample goods by both parties before. Artical 3: Payment Term: The buyer shall pay for the commodity by TT/REMITTANCE 100% within 60 days after receipt of cargos at HCM port. Artical 4: Shipment: Shipment shall be not later than Dec 31st 2006with the following detail: FROM : Ho Chi Minh PORT TO: AUSTRALIA Artical 5: Parking and Marking: Commodity shall be packed by manufacturer’s export standard packs. Artical 6: Other Conditions Any change and amendment to this contract shall be made in writing including telex and fax and signed manual agreement.Any change and amendment shall considered as internal part of this contract. This contract is made in four original copies in English with same value, each party keep two. BUYER SELLER EXPLORER PLANET EARTH LTD SH VIETNAMCO.,LTD Phần II: Lập luận của SH và Tonkin tại phiên tòa A/.Lập luận của SH: Luận điểm 1: SH cho rằng, vận đơn Tonkin cấp là bằng chứng hợp đồng vận chuyển giữa SH và Tonkin chứ không phải của giữa Tonkin và người mua FOB ở Australia . Tonkin đã vi phạm hợp đồng, không đưa hàng về theo lệnh của SH mà giao hàng cho EPE trong khi EPE lại chưa trả tiền, gây tổn thất cho SH vì vậy phải bồi thường 100% . Luận điểm 2: Theo SH, vận đơn mà Tonkin cấp cho SH tuy có vẻ là đích danh nhưng thực ra là vận đơn theo lệnh vì ở mục consignee (mặt trước của vận đơn ): chỉ là ghi lại tên và địa chỉ, chứ nó không có ý nghĩa là người nhận hàng đích danh, ngoài ra theo quy định thì vận đơn House B/ L ở mục người nhận hàng luôn ghi là “consigned to order of….” nghĩa là nó luôn vận đơn theo lệnh do đó trong trường hợp này vận đơn của Tokin cấp sẽ được hiểu là vận đơn theo lệnh của SH, chưa hết theo điều 3.1 ở mặt sau của vận đơn còn có quy định rằng: “Vận đơn này được ký phát theo hình thức có thể chuyển nhượng được trừ trường hợp nó ghi không thể chuyển nhượng được”, mà trong vận đơn không có ghi chú nào nói rằng vận đơn này không thể chuyển nhượng được dó đó vận đơn này phải được hiểu là vận đơn theo lệnh vì nó có thể chuyển nhượng được .Bên cạnh đó hợp đồng mua bán giữa SH và EPE là hợp đồng chỉ có giá FOB tức chỉ là căn cứ để tính giá hàng hóa chứ không phải để xác định điều kiện giao hàng hay thời điểm chuyển giao quyền sở hữu do đó đây không phải là điều kiện FOB vì thế SH vẫn còn nguyên quyền sở hữu hàng hóa trong trường hợp hàng đã được giao lên boong tàu .Kết luận vận đơn của Tonkin cấp là vận đơn theo lệnh của SH và không tồn tại điều kiện giao hàng FOB do đó SH vẫn còn quyền sở hữu hàng hóa vì thế việc Tonkin không thực hiện theo lệnh của SH dẫn đến gây thiệt hại cho SH rõ ràng là vi phạm pháp luật (trái với điều 92 , khoản 1 , Bộ luật hàng hải Việt Nam.) Điều 92. Quyền định đoạt hàng hoá của người gửi hàng 1. Người gửi hàng có quyền định đoạt hàng hoá cho đến khi hàng được trả cho người nhận hàng hợp pháp, nếu chưa giao quyền này cho người khác; có quyền yêu cầu dỡ hàng trước khi tàu biển bắt đầu chuyến đi, thay đổi người nhận hàng hoặc cảng trả hàng sau khi chuyến đi đã bắt đầu với điều kiện phải bồi thường mọi tổn thất và chi phí liên quan. Luận điểm 3: Ngoài ra Tonkin còn vi phạm nguyên tắc giao hàng, cụ thể Tonkin đã giao hàng cho EPE mà không thu hồi vận đơn gốc điều này là trái với điều 93 bộ luật hàng hải Việt Nam về nghĩa vụ trả hàng của người vận chuyển : “khi tàu biển đến cảng trả hàng người vận chuyển có nghĩa vụ giao hàng cho người nhận hàng hợp pháp nếu có vận đơn gốc, giấy gửi hàng đường biển hoặc chứng từ vận chuyển khác có giá trị để nhận hàng quy định tại điều 89, bộ luật HHVN. Sau khi hàng hóa đã được trả , các chứng từ vận chuyển còn lại không còn giá trị để nhận hàng” . Do đó việc Tonkin giao hàng cho EPE mà không thu hồi vận đơn gốc là trái pháp luật gây thiệt hại cho SH. Luận điểm 4: Tonkin còn vi phạm điều 79 , điều 94 , Bộ luật HHVN và điều 239 , Luật thương mại về việc bán đấu giá và cầm giữ hàng : Theo điều 79 về giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển : thì trong trường hợp hàng hóa bị mất mát hư hỏng (do Tonkin không đưa hàng trở về Việt Nam như theo lệnh của SH dẫn đến hàng hóa bị hư hỏng và bị mất cụ thể là bị công ty EPE chiếm đoạt ) do lỗi của người vận chuyển thì người vận chuyển phải có trách nhiệm bồi thường theo giá trị hàng hóa được ghi trên vận đơn . Theo điều 94 về xử lý hàng bị lưu giữ và Điều 239 luật thương mại thì trong trường hợp người nhận hàng không đến nhận, từ chối hoặc trì hoãn việc nhận hàng dẫn tới hàng hóa có thể bị hư hỏng thì người vận chuyển có thể thanh lý hàng bằng các biện pháp bán đấu giá để giảm thiệt hại cho hàng hóa. Trong trường hợp này Tonkin có thể thực hiện các biện pháp trên để hạn chế thiệt hại nhưng lại không làm do đó gây thiệt hại cho SH . Luận điểm 5: Hợp đồng mua bán giữa SH và EPE quy định người bán phải nhận được tiền rồi mới giao chứng từ, trong khi đó Tonkin biết là người bán chưa thu được tiền mà cứ giao hàng là vi phạm pháp luật. SH còn khẳng định sau khi nhận được tiền bán hàng SH sẽ “Chuyển chứng từ gốc hoặc phát hành thư điện giao hàng bằng SURRENDER” cho khách hàng EPE để nhận hàng” (Trích nguyên văn đơn khởi kiện của SH). Luận điểm 6: Tại sao Tonkin biết EPE lừa đảo SH mà vẫn cứ giao hàng cho họ? B/.Lập luận của Tonkin: Luận điểm 1: SH đã ký hợp đồng quá sơ sài và lỏng lẻo với một công ty ma, lừa đảo thì SH phải tự gánh chịu thiệt hại. Vận đơn này là bằng chứng của hợp đồng vận chuyển giữa Tonkin và EPE chứ không phải giữa SH và Tonkin, phía SH đã nhầm lẫn khi dẫn chiếu Điều 70 của BLHHVN. _Điều 70-BLHHVN. Hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển 1. Hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển là hợp đồng được giao kết giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển, theo đó người vận chuyển thu tiền cước vận chuyển do người thuê vận chuyển trả và dùng tàu biển để vận chuyển hàng hoá từ cảng nhận hàng đến cảng trả hàng. Luận điểm 2: Theo Điều 758 và Điều 766, Khoản 2, Bộ luật Dân sự, đây là vụ kiện dân sự có yếu tố nước ngoài, vì vậy ngoài luật Việt Nam phải áp dụng cả luật Australia (nơi đang có tranh chấp về việc chấm dứt hợp đồng vận chuyển và quyền sở hữu) để giải quyết vụ việc. _Điều 758-BLDS. Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài _Điều 766-BLDS. Quyền sở hữu tài sản 2. Quyền sở hữu đối với động sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, nếu không có thoả thuận khác. Về phạm vi không gian trách nhiệm người vận chuyển giữa Điều 74, Khoản 1, BLHHVN và Công ước Hague Rules (Australia là thành viên) có xung đột. Theo Điều 3, Khoản 4, BLHHVN, khi có xung đột pháp luật về hợp đồng vận chuyển phải áp dụng luật nơi trả hàng (Australia) để giải quyết. Nếu vậy, phải áp dụng Điều 1, Khoản e của Hague Rules để xem Tonkin đã hoàn thành việc “vận chuyển hàng hóa” chưa? Điều 1, Khoản e, Hague Rules áp dụng nguyên tắc phạm vi không gian trách nhiệm người vận chuyển là “từ cẩu tới cẩu: tackle to tackle”, như vậy Tonkin hết trách nhiệm khi dỡ xong hàng ở cảng, chứ không phải tới khi giao hàng cho người nhận hàng đích danh trong kho ngoại quan Sydney (chi phí thì từ cảng đến cảng, nhưng trách nhiệm thì từ cẩu tới cẩu). _Điều 74-BLHHVN. Thời điểm phát sinh và chấm dứt trách nhiệm của người vận chuyển Trách nhiệm của người vận chuyển phát sinh từ khi người vận chuyển nhận hàng tại cảng nhận hàng, được duy trì trong suốt quá trình vận chuyển và chấm dứt khi kết thúc việc trả hàng tại cảng trả hàng. _ Điều 1, Khoản e của Hague Rules: (e) 'Carriage of goods' covers the period from the time when the goods are loaded on to the time they are discharged from the ship.(TACKLE TO TACKLE) _Điều 3-BLHHVN. Nguyên tắc áp dụng pháp luật khi có xung đột pháp luật 4. Trong trường hợp quan hệ pháp luật liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hoá thì áp dụng pháp luật của quốc gia nơi hàng hoá được trả theo hợp đồng. Luận điểm 3: Theo Điều 74, Khoản 3, Mục b, BLHHVN, thì ngày 01/3/2007 (khi đại lý Tonkin đã đưa hàng vào kho ngoại quan của Hải quan Sydney) là ngày giao hàng. _Điều 74-BLHHVN. Thời điểm phát sinh và chấm dứt trách nhiệm của người vận chuyển 3. Việc trả hàng kết thúc trong các trường hợp sau đây: b. Người vận chuyển hoàn thành việc trả hàng cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cho bên thứ ba theo quy định của pháp luật hoặc quy định tại cảng trả hàng. Hơn thế nữa, Điều 96, Khoản 2, BLHHVN thì sau 3 ngày giao hàng nếu người nhận hàng không thông báo khiếu nại gì thì coi như Tonkin đã giao “đúng và đủ” hàng (Điều 3, Khoản 6, Hague Rules cũng tương tự). Ngày 14/4/2007, SH ra lệnh đưa hàng về Việt Nam là không có cơ sở pháp lý. _Điều 96-BLHHVN. Giám định và thông báo về mất mát, hư hỏng hàng hoá hoặc chậm trả hàng Hàng hoá được coi là đã trả đủ và đúng như ghi trong vận đơn, giấy gửi hàng đường biển hoặc chứng từ vận chuyển khác, nếu người nhận hàng không thông báo bằng văn bản cho người vận chuyển về mất mát, hư hỏng hàng hoá chậm nhất là ba ngày, kể từ ngày nhận hàng, nếu không thể phát hiện thiệt hại từ bên ngoài; _Điều 3, Khoản 6, Hague Rules 6. Trừ khi thông báo bằng văn bản về mất mát hoặc thiệt hại và tính chất chung của các mất mát, hư hỏng đó được gửi cho người chuyên chở hay đại lý của người chuyên chở tại cảng dỡ hàng trước hoặc vào lúc trao hàng cho người có quyền nhận hàng theo hợp đồng vận chuyển coi giữ, hoặc, nếu mất mát hoặc hư hỏng không thể hiện rõ bên ngoài, trong vòng ba ngày, việc trao hàng như vậy sẽ là bằng chứng hiển nhiên của việc giao hàng của người chuyên chở như mô tả trong vận đơn. Điều 78, Khoản 2, Mục i và r, BLHHVN miễn “hoàn toàn” trách nhiệm cho Tonkin nếu tổn thất xảy ra do lỗi người gửi hàng (SH ký hợp đồng rất sơ sài với công ty ma, bị lừa đảo, hơn thế nữa đã không xin cấp vận đơn theo lệnh mà lại xin cấp vận đơn đích danh nên đã mất quyền sở hữu về hàng hóa và các quyền về vận đơn kể từ ngày giao hàng và ngày cấp vận đơn). _Điều 78-BLHHVN. Miễn trách nhiệm của người vận chuyển 2. Người vận chuyển được miễn hoàn toàn trách nhiệm, nếu tổn thất hàng hoá xảy ra trong các trường hợp sau đây: i) Hành động hoặc sự sơ suất của người giao hàng, chủ sở hữu hàng, đại lý hoặc đại diện của họ; r) Bất kỳ nguyên nhân nào khác xảy ra mà người vận chuyển không có lỗi hoặc không cố ý gây ra tổn thất hoặc không phải do người làm công, đại lý của người vận chuyển có lỗi gây ra. Việc SH dẫn chiếu Điều 80, BLHHVN để bác bỏ sự miễn trách của Tonkin trong Điều 78 là một sự dẫn chiếu hết sức khập khiễng. _Điều 80-BLHHVN. Mất quyền giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển 1. Người vận chuyển mất quyền giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển quy định tại Điều 79 của Bộ luật này nếu người khiếu nại chứng minh được mất mát, hư hỏng hàng hoá là hậu quả do người vận chuyển đã có hành vi cố ý gây mất mát, hư hỏng, chậm trả hàng hoặc cẩu thả và biết rằng việc mất mát, hư hỏng hoặc chậm trả hàng đó có thể xảy ra. 2. Người làm công, đại lý của người vận chuyển thực hiện với chủ định gây ra mất mát, hư hỏng hàng hoá, chậm trả hàng hoặc cẩu thả và biết rằng việc mất mát, hư hỏng hoặc chậm trả hàng đó có thể xảy ra cũng không được giới hạn trách nhiệm quy định tại Mục này Tonkin không thể lấy Điều 94, BLHHVN và Điều 239, Luật Thương mại Việt Nam để đem sang Australia xử lý lô hàng này, vì việc làm này trái với Điều 2 và Điều 3, Khoản 4, BLHHVN và Điều 1, Luật Thương mại Việt Nam. _Điều 2-BLHHVN. Đối tượng áp dụng 1. Bộ luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài liên quan đến hoạt động hàng hải tại Việt Nam. 2. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó _Điều 3-BLHHVN. Nguyên tắc áp dụng pháp luật khi có xung đột pháp luật 4. Trong trường hợp quan hệ pháp luật liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hoá thì áp dụng pháp luật của quốc gia nơi hàng hoá được trả theo hợp đồng. _Điều 1-Luật TM. Phạm vi điều chỉnh 1. Hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2. Hoạt động thương mại thực hiện ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp các bên thoả thuận chọn áp dụng Luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng Luật này. 3. Hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này. Luận điểm 4: Theo Điều 62, Luật Thương mại, do hợp đồng mua bán giữa SH và EPE không quy định về việc khi nào thì chuyển quyền sở hữu từ người bán sang người mua nên quyền sở hữu lô hàng này đã chuyển sang người mua kể từ ngày 20/12/2006 (tức ngày giao hàng ở TP Hồ Chí Minh). _Điều 62. Thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng hoá Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác, quyền sở hữu được chuyển từ bên bán sang bên mua kể từ thời điểm hàng hóa được chuyển giao. Điều 248, Bộ luật Dân sự cũng quy định tương tự. Trang 95, Australia Maritime Law cũng quy định rằng, đối với vận đơn đích danh thì các quyền về vận đơn trong đó có quyền về sở hữu hàng hóa sẽ chuyển sang người nhận hàng đích danh có tên ghi trong đó ngay lập tức khi ký phát vận đơn. Khi vận đơn đã được ký phát, SH chỉ có quyền định đoạt như Điều 92, BLHHVN nếu chưa chuyển giao quyền này cho người khác. Thực tế, từ 20/12/2006, các quyền sở hữu, quyền định đoạt hàng hóa và các quyền về vận đơn đã tuột khỏi tay SH. _Điều 248. Chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác Khi chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác thông qua hợp đồng mua bán, trao đổi, tặng cho, cho vay hoặc thông qua việc để thừa kế thì quyền sở hữu đối với tài sản của người đó chấm dứt kể từ thời điểm phát sinh quyền sở hữu của người được chuyển giao. Luận điểm 5: Vận đơn Tonkin cấp “Ghi rõ tên người nhận hàng gọi là vận đơn đích danh” như Điều 86, Khoản 2, Mục a, BLHHVN quy định. _Điều 86-BLHHVN. Ký phát vận đơn 2. Vận đơn có thể được ký phát dưới các dạng sau đây: a) Ghi rõ tên người nhận hàng, gọi là vận đơn đích danh; Đã là vận đơn đích danh thì không chuyển nhượng được và người có tên trong vận đơn đích danh là người nhận hàng hợp pháp. Vận đơn là đích danh hay theo lệnh, chuyển nhượng được hay không là do nội dung mặt trước (Box-layout Side) của vận đơn (đặc biệt là nội dung ô chữ: “Consignee”) quyết định chứ không phải do người vận chuyển ghi vào đó chữ “Straight” thì nó là đích danh, hay cứ ghi vào đó chữ “Negotiable” là tự nó có thể chuyển nhượng được. Một vận đơn có thể chuyển nhượng được hay không phải theo đúng chuẩn mực quy định của Khoản 2, Mục b và Khoản 3, Điều 86, BLHHVN, chứ không phải phụ thuộc vào Điều 3.1 của vận đơn Tonkin. _Điều 86. Ký phát vận đơn 2. Vận đơn có thể được ký phát dưới các dạng sau đây: b) Ghi rõ tên người giao hàng hoặc tên những người do người giao hàng chỉ định phát lệnh trả hàng, gọi là vận đơn theo lệnh; 3. Trường hợp trong vận đơn theo lệnh không ghi rõ tên người phát lệnh trả hàng thì người giao hàng mặc nhiên được coi là người có quyền đó. Hơn nữa, các bên chỉ có quyền thỏa thuận những gì mà Điều 87, BLHHVN quy định (về nội dung vận đơn). Về chữ “Surrender”, SH hoàn toàn không hiểu gì, thực ra không ai viết là “Surrender”, mà phải viết là “Surrendered” (thì quá khứ). “Surrendered” có nghĩa là bản gốc đã bị thu hồi, hoặc chính xác hơn người ta không cấp bản gốc. Chỉ có người vận chuyển mới dùng chữ Surrendered để đóng vào mặt trước vận đơn với ý nghĩa như nói trên, còn người gửi hàng và người nhận hàng không ai dùng chữ này cả. Nếu SH muốn ra lệnh giao hàng thì phải ký hậu (endorse) vào sau vận đơn. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi vận đơn mà SH có là vận đơn theo lệnh (To Order B/L). Luận điểm 6: BLHHVN quy định khi trả hàng ở cảng đích, người vận chuyển phải thu hồi vận đơn gốc (kể cả đấy là vận đơn đích danh). Luật Common Law (Australia là thành viên) thì lại quy định vận đơn đích danh không chuyển nhượng
Tài liệu liên quan