TÓM TẮT
Sau 7 năm thực hiện Nghị quyết 05/2005/NQ-CP của Chính phủ về việc đẩy mạnh xã
hội hoá giáo dục (XHHGD), thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM) đã đạt được những
thành tựu hết sức cơ bản và vững chắc, đó là: Huy động được các nguồn lực của các
ngành, các cấp, các tổ chức kinh tế - xã hội và cá nhân để phát triển giáo dục - đào tạo;
Tăng cường quan hệ của nhà trường với gia đình và xã hội; huy động trí tuệ nguồn lực của
toàn ngành, toàn xã hội vào việc đổi mới nội dung, chương trình, thực hiện giáo dục toàn
diện; Đa dạng hoá các loại hình giáo dục, tạo điều kiện bổ sung mặt mạnh cho nhau giữa
các loại hình giáo dục; Ban hành cơ chế chính sách cụ thể, khuyến khích và quy định trách
nhiệm các ngành, địa phương, các tổ chức kinh tế - xã hội và người sử dụng lao động tham
gia xây dựng trường, hỗ trợ kinh phí cho người học, thu hút nhân lực được đào tạo và
giám sát các hoạt động giáo dục.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 288 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xã hội hoá giáo dục ở thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
91
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 9 - Thaùng 4/2012
XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HUỲNH TIỂU PHỤNG (*)
TÓM TẮT
Sau 7 năm thực hiện Nghị quyết 05/2005/NQ-CP của Chính phủ về việc đẩy mạnh xã
hội hoá giáo dục (XHHGD), thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM) đã đạt được những
thành tựu hết sức cơ bản và vững chắc, đó là: Huy động được các nguồn lực của các
ngành, các cấp, các tổ chức kinh tế - xã hội và cá nhân để phát triển giáo dục - đào tạo;
Tăng cường quan hệ của nhà trường với gia đình và xã hội; huy động trí tuệ nguồn lực của
toàn ngành, toàn xã hội vào việc đổi mới nội dung, chương trình, thực hiện giáo dục toàn
diện; Đa dạng hoá các loại hình giáo dục, tạo điều kiện bổ sung mặt mạnh cho nhau giữa
các loại hình giáo dục; Ban hành cơ chế chính sách cụ thể, khuyến khích và quy định trách
nhiệm các ngành, địa phương, các tổ chức kinh tế - xã hội và người sử dụng lao động tham
gia xây dựng trường, hỗ trợ kinh phí cho người học, thu hút nhân lực được đào tạo và
giám sát các hoạt động giáo dục.
Từ khoá: xã hội hoá giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh, những kết quả, những khó
khăn, phương hướng
ABSTRACT
After 7 years of carrying out the Resolution 05/2005/NQ-CP by the Government on
socialized education, HCM City has gained some basic and stable achievements such as
mobilizing the resources of the branches, departments, socio-economic organizations and
individuals so as to develop the education and training; strengthening the relationship
between the school and the family as well as the society; mobilizing the intellectual
resources of all the branches as well as the society to reform the content, the curriculum
for the thorough education; diversifying the forms of education, providing conditions for
the forms of education to profit from the strong points of each form; issuing concrete
policies and structures, encouraging and assigning all the branches, local authorities,
socio-economic organizations and employers to take part in building schools, supporting
learners, attracting well-trained human resources and supervising educational activities
Key words: socialized education, Ho Chi Minh City, results, difficulties, orientation
Xã hội hoá giáo dục là một trong
những quan điểm phát triển giáo dục của
Đảng và Nhà nƣớc ta. Đây không chỉ đơn
thuần là việc huy động nhân dân đóng góp
tiền của, vật chất mà còn là một chủ trƣơng
mang tính toàn diện và đồng bộ.
Đến nay, XHHGD đã đƣợc triển khai
rộng khắp trên phạm vi cả nƣớc; góp phần
(*)
ThS, Thành ủy TP. Hồ Chí Minh
xây dựng nên một xã hội học tập, một xã
hội toàn dân tham gia vào các hoạt động
giáo dục. Ở nhiều địa phƣơng, nhân dân đã
hiến đất làm trƣờng học, các đoàn thể, các
tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, các nhà
hảo tâm hăng hái mở trƣờng học, từ những
trƣờng học tình thƣơng đến các trƣờng
mầm non, tiểu học, trung học, dạy nghề và
đại học. XHHGD đã và đang trở thành sự
92
hợp tác có hiệu quả giữa Nhà nƣớc và nhân
dân, các tổ chức xã hội để thực hiện một
nền giáo dục dân chủ rộng mở cho tất cả
mọi ngƣời trong xã hội, một nền giáo dục
tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong
những thành phố đông dân nhất cả nƣớc, có
vai trò trung tâm về nhiều mặt: kinh tế - văn
hoá - khoa học công nghệ, là đầu mối giao
lƣu quốc tế của khu vực và cả nƣớc. Tiềm
lực và khả năng thu hút vốn đầu tƣ thuộc
mọi thành phần kinh tế rất lớn, do đó việc
huy động các nguồn lực để góp phần cùng
Nhà nƣớc chăm lo, giải quyết nhu cầu học
tập cho các tầng lớp nhân dân, trong khi
nguồn vốn ngân sách có hạn là một vấn đề
có ý nghĩa cấp thiết trong bối cảnh hiện nay.
1. NHỮNG KẾT QUẢ TRONG THỰC
HIỆN XHHGD Ở TP. HỒ CHÍ MINH
Nhìn lại 15 năm qua, từ khi có Nghị
quyết 90/NQ-CP của Chính phủ về định
hƣớng xã hội hoá (XHH) các lĩnh vực văn
hoá xã hội và đặc biệt là sau 7 năm thực
hiện Nghị quyết 05/2005/NQ-CP của
Chính phủ về đẩy mạnh XHHGD, TP.
HCM đã đạt đƣợc những thành tựu hết sức
cơ bản và vững chắc.
1.1. Huy động được các nguồn lực
của các ngành, các cấp, các tổ chức kinh
tế - xã hội và cá nhân để phát triển giáo
dục - đào tạo
Trong những năm qua, TP. HCM đã
huy động đƣợc nguồn lực to lớn của xã hội
để chăm lo cho sự nghiệp giáo dục. Số
trƣờng và quy mô phát triển các trƣờng
ngoài công lập không ngừng tăng lên về số
lƣợng, đƣợc củng cố về chất lƣợng, đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập của
con em nhân dân.
Sự phát triển về số lƣợng trƣờng, mở
rộng quy mô từng trƣờng đã nói lên nhu
cầu học tập của xã hội, đòi hỏi các nhà
trƣờng không ngừng đổi mới công tác quản
lí, đổi mới hoạt động dạy học, nâng cao
chất lƣợng đào tạo để tồn tại và phát triển.
Mức đầu tƣ cho giáo dục của TP.
HCM đƣợc tăng lên hàng năm đã tạo nhiều
điều kiện thuận lợi cho các trƣờng công lập
khu vực ngoại thành, vùng sâu, vùng xa;
thực hiện miễn, giảm học phí và các khoản
đóng góp cho đối tƣợng chính sách, ngƣời
nghèo, thực hiện công bằng xã hội trong
giáo dục.
Cơ sở vật chất, trƣờng lớp đƣợc xây
mới, sửa chữa, nâng cấp, mở rộng hàng
năm; trang thiết bị dạy học đƣợc bổ sung,
tăng cƣờng (cả trƣờng công lập và ngoài
công lập) góp phần quan trọng trong đổi
mới giáo dục phổ thông nói chung, đổi mới
phƣơng pháp dạy học nói riêng nhằm nâng
cao chất lƣợng đào tạo của nhà trƣờng,
chất lƣợng giáo dục toàn diện cho học sinh.
Năm 2011, nhân dân Thành phố (TP)
đã đóng góp hơn 2.925 tỉ đồng cho giáo
dục. Đây là một nguồn lực đặc biệt có ý
nghĩa quan trọng trong khi ngân sách của
Nhà nƣớc chi cho giáo dục còn có hạn.
Qua thống kê chƣa đầy đủ, có thể thấy, nếu
ngân sách đầu tƣ 1 triệu đồng/học sinh/năm
thì các hoạt động XHHGD đã góp phần
hơn 50% của ngân sách đó.
1.2. Tăng cường quan hệ của nhà
trường với gia đình và xã hội; huy động
trí tuệ nguồn lực của toàn ngành, toàn xã
hội vào việc đổi mới nội dung, chương
trình, thực hiện giáo dục toàn diện
Sự nghiệp XHHGD ở TP. HCM đã
tăng cƣờng mối quan hệ giữa các lực lƣợng
giáo dục gia đình, nhà trƣờng và xã hội.
Cùng với nhà trƣờng, gia đình và xã hội
không chỉ là những môi trƣờng, lực lƣợng
giáo dục mà còn là nơi cung ứng nguồn lực
rất quan trọng để phát triển giáo dục.
Nếu không có XHHGD thì không thể
93
có hoạt động bán trú chất lƣợng ở các
trƣờng mầm non hiện nay và cũng không
thể đáp ứng nhu cầu gửi con bán trú học 2
buổi/ngày của phụ huynh học sinh tiểu học,
trung học cơ sở (THCS).
Ngoài sự đóng góp của nhân dân, của
phụ huynh học sinh, các lực lƣợng xã hội
đã tích cực chăm lo hỗ trợ nhà trƣờng trong
các hoạt động khác. Hội đồng Giáo dục
Quận, Huyện, Ban đại diện cha mẹ học
sinh đã cùng các đoàn thể xã hội, phụ
huynh học sinh luôn luôn phối hợp cùng
nhà trƣờng, bằng những việc làm thiết
thực, góp phần giáo dục toàn diện cho học
sinh nhƣ: tổ chức cho học sinh đi tham
quan bảo tàng, dã ngoại, thăm nom chăm
sóc các gia đình thƣơng binh liệt sĩ, Mẹ
Việt Nam anh hùng, trƣờng trẻ mồ côi,
khuyết tật, giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh
đặc biệt, khám sức khỏe, tổ chức và kiểm
soát bếp ăn bán trú
1.3. Đa dạng hoá và tạo sự tác động
lẫn nhau giữa các loại hình giáo dục
Nghị quyết 90/CP (1997), Nghị định
73/1999/NĐ- CP (1999), Quyết định
39/2001/QĐ-BGD&ĐT (2001), Nghị quyết
05/2005/NQ-CP (2005) và các văn bản
pháp quy khác đã đề ra chủ trƣơng và tạo
điều kiện pháp lí cho việc thành lập các cơ
sở giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) và dạy
nghề ngoài công lập trên địa bàn TP.
HCM. Việc đa dạng hoá các loại hình giáo
dục không chỉ đáp ứng đủ chỗ học cho con
em nhân dân (trung học phổ thông (THPT)
công lập trong những năm gần đây chỉ thu
hút đƣợc trên 80% học sinh tốt nghiệp
THCS vào học) mà còn đáp ứng các dịch
vụ giáo dục cao (cơ sở vật chất, trang thiết
bị hiện đại, sĩ số thấp,) cũng nhƣ nhu cầu
chuyên biệt trong việc quản lí, giáo dục
học sinh
Bên cạnh đó, việc đa dạng hoá các loại
hình giáo dục còn làm xuất hiện mô hình
giáo dục mang tính quốc tế (cơ sở vất chất
tốt; trang thiết bị hiện đại; đội ngũ giáo
viên có trình độ, năng lực; sĩ số học sinh
thấp; nội dung giáo dục tiên tiến; phƣơng
pháp giảng dạy tiên tiến,)
Hiện nay, toàn TP có 650 trung tâm
văn hoá ngoài giờ, 333 trƣờng Mầm non tƣ
thục, 5541 nhóm trẻ gia đình, 34 trƣờng
tiểu học, 4 trƣờng THCS, 85 trƣờng THPT
tƣ thục, 32 trƣờng quốc tế và các trƣờng có
yếu tố nƣớc ngoài
1.4. Ban hành cơ chế chính sách cụ
thể, khuyến khích và quy định trách
nhiệm các ngành, địa phương, các tổ
chức kinh tế - xã hội và người sử dụng
lao động tham gia xây dựng trường, hỗ
trợ kinh phí cho người học, thu hút nhân
lực được đào tạo và giám sát các hoạt
động giáo dục
Trong những năm qua, trên cơ sở các
văn bản về XHHGD của Chính phủ và Bộ
GD&ĐT, TP đã ban hành các cơ chế chính
sách cụ thể để đẩy mạnh sự nghiệp
XHHGD trên địa bàn.
TP. HCM đã khuyến khích thành lập
các cơ sở GD&ĐT và dạy nghề ngoài công
lập; chuyển một số cơ sở công lập sang loại
hình ngoài công lập; khuyến khích việc
hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào
tạo có chất lƣợng cao của nƣớc ngoài. TP
cũng đã có nhiều chính sách trợ cấp học
phí, học bổng cho học sinh giáo dục phổ
cập, cho ngƣời học là đối tƣợng chính sách,
những ngƣời ở những địa bàn còn khó
khăn, những ngƣời nghèo và những ngƣời
học xuất sắc, không phân biệt học ở trƣờng
công lập hay ngoài công lập. Ngoài ra, TP
cũng đã ban hành các quy định trách nhiệm
đối với các ngành, địa phƣơng, các tổ chức
kinh tế - xã hội và ngƣời sử dụng lao động
tham gia xây dựng nhà trƣờng, hỗ trợ kinh
94
phí cho ngƣời học, thu hút nhân lực đƣợc
đào tạo và giám sát các hoạt động giáo dục.
2. NHỮNG KHÓ KHĂN, BẤT CẬP
TRONG THỰC HIỆN XHHGD Ở TP.
HỒ CHÍ MINH
Tuy là địa phƣơng đi đầu cả nƣớc
trong lĩnh vực XHHGD nhƣng TP.
HCM vẫn còn phải giải quyết hàng loạt
vấn đề đặt ra từ nhận thức của ngƣời
dân đến công tác định hƣớng, quy
hoạch, tiến trình thực hiện. Vì thế, bên
cạnh những kết quả đạt đƣợc vừa nêu, công
tác XHHGD ở TP. HCM vẫn còn những
khó khăn, bất cập sau đây:
- Việc định hƣớng phát triển, quy
hoạch và chỉ đạo thực hiện theo Nghị quyết
05/2005/NQ-CP chƣa đƣợc đầu tƣ đúng
mức và chƣa thực sự quan tâm chỉ đạo thực
hiện một cách quyết liệt.
- Các Sở, Ban ngành chƣa tích cực
tham mƣu cho Thành ủy và Ủy ban nhân
dân thành phố về việc triển khai thực hiện
Nghị quyết 05/2005/NQ-CP của Chính phủ
nên nhận thức của các cấp ủy và của các
địa phƣơng chƣa đầy đủ, dẫn đến việc tổ
chức thực hiện XHHGD ở các địa phƣơng
còn lúng túng.
- Về nhận thức vẫn còn không ít những
suy nghĩ, thói quen bao cấp, chƣa thích ứng
với cơ chế XHH, thói quen bao cấp vẫn còn
ảnh hƣởng nặng trong một bộ phận lãnh
đạo ngành, trong một số cơ sở công lập.
- Loại hình, cách thức xã hội hoá rất đa
dạng, linh hoạt, nhƣng nhiều chính sách,
chế độ, cung cách quản lí chƣa thật sự
tƣơng thích; một số mô hình giáo dục cần
phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện (ví dụ
nhƣ trƣờng chất lƣợng cao, trƣờng quốc tế,
trƣờng công lập tự chủ tài chính).
- Mức học phí của các trƣờng ngoài
công lập hiện đang là rào cản lớn nhất đối
với việc thực hiện XHHGD.
3. PHƢƠNG HƢỚNG TIẾP TỤC ĐẨY
MẠNH CÔNG TÁC XHHGD Ở TP.
HỒ CHÍ MINH
Để tiếp tục đẩy mạnh công tác
XHHGD ở TP. HCM trong thời gian tới,
cần xác định rõ các định hƣớng sau:
- Phải nhận thức sâu sắc XHHGD là
một truyền thống tốt đẹp vốn có từ ngàn
xƣa của dân tộc ta; XHHGD không phải là
một giải pháp tình thế khi đầu tƣ của Nhà
nƣớc cho giáo dục còn hạn hẹp mà đây là
một quan điểm giáo dục, khi xem giáo dục
là sự nghiệp của toàn dân, toàn xã hội.
- Phải đặt XHHGD trong hệ thống các
hoạt động chung của nền giáo dục, trong
mối quan hệ khăng khít với các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội của TP; bao gồm
nhiều việc làm và mang tính chất đồng bộ.
- Thực hiện XHHGD phải tạo ra đƣợc
phong trào toàn dân đi học, toàn dân tự
học, tự nâng cao trình độ văn hoá của
mình, góp phần nâng cao trình độ dân trí
của TP.
- XHHGD phải gắn liền với việc xây
dựng xã hội học tập trên địa bàn TP; huy
động các đoàn thể, tổ chức xã hội nghề
nghiệp tham gia mở các khoá đào tạo, phổ
biến, nâng cao kiến thức cho mọi tầng lớp
nhân dân.
- XHHGD phải đặt dƣới sự lãnh đạo
tuyệt đối và toàn diện của các cấp ủy Đảng,
sự quản lí của các cấp chính quyền trên địa
bàn thành phố.
XHHGD là một trong những quan
điểm giáo dục cơ bản của Đảng ta. Quán
triệt quan điểm này, TP. HCM đã đạt đƣợc
nhiều thành tựu nhƣng vẫn còn nhiều khó
khăn cần tháo gỡ để tiếp tục đẩy mạnh
công tác XHHGD trong giai đoạn hiện nay.
95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Nghị quyết 05/2005/NQ-CP, ngày 18/4/2005 của Chính phủ Về đẩy mạnh xã hội hoá
các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục, thể thao.
3. Huỳnh Tiểu Phụng, “Một số giải pháp đẩy mạnh XHHGD ở nƣớc ta hiện nay”, Tạp chí
Đại học Sài Gòn, số 6/2011.
* Nhận bài 28/3/2012. Sửa chữa xong 7/4/2012. Duyệt đăng 11/4/2012.