TÓM TẮT
Một trong những nhược điểm của nghiên cứu khoa học ở nước ta là cách xác định vấn
đề trước khi nghiên cứu. Đó là một công đoạn đã được cộng đồng khoa học thế giới đúc
kết thành quy chuẩn. Để xác định vấn đề cho nghiên cứu, cần phải phân biệt vấn đề
thường ngày trong cuộc sống và công tác, với vấn đề khoa học. Vấn đề khoa học là một lát
cắt thực tế mà người nghiên cứu thực hiện bằng cách quan sát thực tế rồi phân tích, đối
chiếu với kho tàng tri thức của nhân loại, đề phát hiện ra khoảng trống tri thức và tìm ra
cái mới trong khoa học. Bài viết này sẽ cố gắng trình bày nguyên tắc giúp học viên sau đại
học chủ động sáng tạo trong công đoạn đầu tiên của nghiên cứu khoa học, đó là xác định
vấn đề.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 310 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định vấn đề nghiên cứu cho công trình khoa học như thế nào?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 21 - Thaùng 6/2014
6
XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CHO
CÔNG TRÌNH KHOA HỌC NHƯ THẾ NÀO?
TRẦN THANH ÁI(*)
“Mọi kiến thức khoa học đều bắt đầu từ một câu hỏi”
(G. Bachelard)
TÓM TẮT
Một trong những nhược điểm của nghiên cứu khoa học ở nước ta là cách xác định vấn
đề trước khi nghiên cứu. Đó là một công đoạn đã được cộng đồng khoa học thế giới đúc
kết thành quy chuẩn. Để xác định vấn đề cho nghiên cứu, cần phải phân biệt vấn đề
thường ngày trong cuộc sống và công tác, với vấn đề khoa học. Vấn đề khoa học là một lát
cắt thực tế mà người nghiên cứu thực hiện bằng cách quan sát thực tế rồi phân tích, đối
chiếu với kho tàng tri thức của nhân loại, đề phát hiện ra khoảng trống tri thức và tìm ra
cái mới trong khoa học. Bài viết này sẽ cố gắng trình bày nguyên tắc giúp học viên sau đại
học chủ động sáng tạo trong công đoạn đầu tiên của nghiên cứu khoa học, đó là xác định
vấn đề.
Từ khóa: nghiên cứu khoa học, quan sát thực tế, đối chiếu, phân tích
ABSTRACT
One of weakness of Vietnamese research is how to determine research problems. This
stape is standardized by international scientific community. To determine research
problems, it must distinguish daily problems from scientific problems. Scientific problem is
a “tranch” of reality that researcher makes by observing reality then analyses it, compares
it and the corpus of knowledge of humanity, in order to discover gaps of knowledge and to
finds out scientific novelty. This paper will introduce principles which help master students
to determine autonomously and creatively research problem.
Keywords: scientific research, observe reality, comparison, analyse
*Nghiên cứu khoa học là nghiên cứu
những gì? Câu hỏi này có vẻ ngây ngô, tầm
thường, nhưng không ít người ngắc ngứ,
hoặc ngộ nhận. Thậm chí, có thể nói rằng
trở ngại lớn nhất của mọi sinh viên, học
viên cao học, kể cả nghiên cứu sinh tiến sĩ,
khi phải trả lời cho câu hỏi “nghiên cứu cái
gì?” mà họ phải tự đặt ra để tìm đề tài cho
luận văn của họ. Thật vậy, đã có không ít
(*)PGS.TS, Nhà giáo ưu tú, Trường Đại học Cần Thơ
học viên sau đại học phải bỏ học nửa
chừng chỉ vì không thể tìm được câu trả lời
thỏa đáng, hoặc nói cách khác, không xác
định được vấn đề mà họ muốn phát triển
thành đề tài nghiên cứu, mặc dù đã hoàn tất
các học phần lý thuyết. Còn những luận
văn/luận án đã hoàn thành thì một số
không ít phải hứng chịu nhiều sự phê bình
của giới khoa học về nhiều phương diện,
mà đầu tiên là cách xây dựng vấn đề
nghiên cứu (research problem) không thích
TRẦN THANH ÁI
7
hợp, khiến chất lượng công trình không
bảo đảm. Nhận xét sau đây của GS. Trần
Văn Thọ dù cách nay hơn 10 năm nhưng
không hề mất tính thời sự, nếu không
muốn nói rằng ngày càng chính xác:
“Cách suy nghĩ về việc chọn đề tài ở
Việt Nam chỉ làm cho luận án tiến sĩ thiếu
tính học thuật và phần lớn thiếu tính độc
sáng. Nội dung, trình độ của luận án do đó
còn rất xa mới đạt được tiêu chuẩn tối thiểu
của thế giới và người được cấp bằng trong
trường hợp đó khó có thể thảo luận khoa
học với chuyên gia nước ngoài trong cùng
ngành” (Trần Văn Thọ, 2003).
Điều đó cho thấy rằng việc xác định
vấn đề nghiên cứu có một vai trò quyết
định trong mọi nghiên cứu khoa học, trong
đó có luận văn, luận án. Vì thế, hoàn toàn
có thể hiểu được khi có nhiều nhà khoa học
cho rằng khi học viên, nghiên cứu sinh xây
dựng được đề tài nghiên cứu là đã đi được
nửa chặng đường! Do đó, muốn nâng cao
hiệu quả và chất lượng đào tạo nghiên cứu
khoa học cho các học viên sau đại học,
trước hết cần phải huấn luyện họ cách xây
dựng đề tài. Tình trạng chung hiện nay ở
các cơ sở đào tạo sau đại học là học viên
chỉ nhận được sự huấn luyện theo kiểu
“cầm tay chỉ việc” của người hướng dẫn,
thậm chí có không ít học viên phải tự xoay
xở, khiến họ như người mù, ai dắt đi đâu
thì đi đó, nên không rèn luyện được sự chủ
động và sáng tạo. Thế mà mục tiêu đào tạo
sau đại học là giúp học viên có năng lực
nghiên cứu khoa học độc lập. GS. Ngô Bảo
Châu đã nhận xét, các nhà khoa học trẻ sẽ
gặp nhiều khó khăn, vì bối cảnh khoa học
hiện đại cạnh tranh rất quyết liệt, trong khi
họ phải có năng lực làm khoa học độc lập
(Ngô Bảo Châu 2013a).
Để tích cực hóa việc thực hành nghiên
cứu khoa học cho học viên, cần phải hướng
dẫn cho họ những nguyên tắc xây dựng vấn
đề nghiên cứu, khiến họ trở thành người
học thông minh, chủ động và sáng tạo.
Như thế mới tránh được sao chép, rập
khuôn trong nghiên cứu, mà trước hết là
rập khuôn trong cách chọn đề tài, và mới
có thể tìm được cái mới đóng góp cho khoa
học, là điều kiện tiên quyết để được cộng
đồng khoa học thế giới công nhận. Trong
bài viết này, chúng tôi sẽ cố gắng trình bày
những nguyên tắc xây dựng đề tài nghiên
cứu phù hợp với chuẩn mực thế giới;
nhưng trước hết, ta thử điểm lại một số đề
tài luận án mà dư luận cho là “có vấn đề”,
đã được bảo vệ ở nước ta.
1. MỘT SỐ ĐỀ TÀI LUẬN VĂN VÀ
LUẬN ÁN BỊ PHÊ BÌNH
Vấn đề chất lượng đào tạo sau đại học
đã được báo động nhiều lần trong các cuộc
hội nghị và trên các phương tiện thông tin
đại chúng. Đặc biệt, báo chí còn ghi lại
những “trận cười ra nước mắt” về tên các
đề tài nghiên cứu của các luận án tiến sĩ
trong hội nghị hiệu trưởng các trường đại
học miền Trung - Tây Nguyên diễn ra tại
Đà Nẵng ngày 26/8/2006, khi những người
có trách nhiệm của ngành giáo dục đã nhắc
đến một số đề tài “có vấn đề” (Xem Hải
Châu 2006, Vũ Thơ 2006, Uyên Na 2012):
- Tắm giặt tập trung cho các quân
đoàn đóng quân phía Bắc,
- Nghiên cứu nhận thức của sinh viên
ĐHSP về sức khỏe sinh sản,
- Các biện pháp tổ chức hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh
trung học phổ thông,
- Biện pháp nâng cao chất lượng
nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh
viên đại học sư phạm,
- Giải pháp nhằm hạn chế ảnh
hưởng của sự biến động giá đồng USD
XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CHO CÔNG TRÌNH KHÓA HỌC NHƯ THẾ NÀO?
8
đến kinh tế Việt Nam,
- Nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây
trồng cho vùng,
- Nghiên cứu cách đánh số nhà trong
thành phố.
- v.v.
Khi đọc tên các đề tài trên đây, người
đọc không thấy được tính xác đáng khoa
học (scientific pertinence) của vấn đề
nghiên cứu mà các tác giả đã chọn cho
công trình khoa học của mình, ngoại trừ
trường hợp “ngọc ẩn trong đá”. Nói cách
khác, nếu các tên đề tài phản ảnh đúng nội
dung công trình, những đề tài trên đây chỉ
nhằm tìm kiếm kết quả giải quyết một vụ
việc cụ thể, mà không hướng đến việc tìm
kiếm quy luật hay nguyên nhân chi phối
các hiện tượng. Điều này vi phạm nghiêm
trọng tính học thuật trong khoa học mà mọi
đại học trên thế giới đều hướng đến.
GS. Hoàng Tụy cũng đã nhiều lần phê
phán nghiêm khắc về cách chọn đề tài
nghiên cứu của giới khoa học nước ta,
chẳng hạn như đề tài Nghiên cứu những
biện pháp chống ách tắc giao thông trong
thành phố, và nói rằng đó không phải là đề
tài nghiên cứu khoa học, mà là công việc
nằm trong chức phận của Sở Giao thông -
Công chính (Hoàng Tụy 2013). Hoặc đề tài
“chống lấn đường”, với kết luận ngây ngô
và vô bổ là “muốn chống lấn đường là phải
đề ra những biện pháp tăng cường lãnh đạo
giáo dục nhân dân”. PGS-TS. Đặng Xuân
Thi cũng đã chỉ ra loại yếu kém khác trong
việc chọn đề tài nghiên cứu của nhiều công
trình khoa học ở nước ta:
“Tuyệt đại nội dung các đề tài mà
chúng ta tiến hành nghiên cứu là ứng dụng
những thành tựu của thế giới vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam. Những vấn đề mà
chúng ta chọn làm mục tiêu nghiên cứu đối
với thế giới thường là quá cũ, có khi cũ đến
hai, ba hoặc cũng có thể tới bốn chục năm”
(Vũ Thơ, 2012).
Cách chọn đề tài nghiên cứu như thế
đã góp phần làm cho chất lượng đào tạo
sau đại học không cao: trong Hội nghị tổng
kết công tác đào tạo sau đại học do Bộ GD-
ĐT tổ chức ngày 4 và 5/1/2006 tại Hà Nội,
Bộ trưởng Bộ GD-ĐT lúc bấy giờ là
Nguyễn Minh Hiển đã cho biết 30% số tiến
sĩ đào tạo trong nước có trình độ yếu
(Vietnamnet 2006).
Tóm lại, theo GS. Hoàng Tụy, “thiếu
tính chuẩn mực, không giữ đúng chuẩn
mực, bất chấp chuẩn mực quốc tế là
nguyên nhân tình trạng lộn xộn, thật giả lẫn
lộn, đang tràn lan hiện nay” (Hoàng Tụy
2003). Vậy chuẩn mực thế giới trong việc
xây dựng đề tài nghiên cứu là như thế nào?
Chúng tôi nghĩ đó là mấu chốt của vấn đề
cần giải quyết để có thể cải thiện chất
lượng đào tạo sau đại học, và kể cả chất
lượng nghiên cứu khoa học của nước ta.
2. KHỞI ĐIỂM CỦA NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC: HIỆN TƯỢNG CÓ VẤN ĐỀ
Mọi nghiên cứu đều phải bắt đầu từ
việc phát hiện ra một hiện tượng có vấn đề,
tuy nhiên, không phải hiện tượng có vấn đề
nào cũng có thể làm nghiên cứu khoa học.
Thật vậy, trong cuộc sống hàng ngày, con
người thường xuyên phải đối diện với
nhiều vấn đề khác nhau và từ xưa đến nay
mọi người có thể giải quyết mà không cần
đến nhà khoa học: vấn đề trong cuộc sống
cá nhân, gia đình và xã hội, vấn đề trong
công việc... Vậy vấn đề nào cần phải làm
nghiên cứu khoa học, vấn đề nào không?
Đây là câu hỏi then chốt mà mọi học viên
cần phải nắm vững, để việc xây dựng đề tài
nghiên cứu không phạm sai lầm.
2.1. Hai loại “vấn đề”
Cần phân biệt hai loại vấn đề: vấn đề
trong sinh hoạt, công tác hàng ngày và vấn
TRẦN THANH ÁI
9
đề trong khoa học.
2.1.1. “Vấn đề” hàng ngày
Trước hết, đừng nhầm lẫn cách dùng
thông dụng của từ “vấn đề” và nghĩa thực
sự của nó. Trong hoạt động ngôn ngữ hàng
ngày, ta thường dùng từ “vấn đề” để chỉ...
mọi thứ, chẳng hạn như khi ta nói: về vấn
đề sức khỏe của nhân dân địa phương
thay cho về tình hình sức khỏe, vấn đề
học hành của con cái thay cho việc học
hành của con cái, vấn đề cơm áo gạo tiền
thay cho chuyện cơm áo gạo tiền nghĩa
là ta có thể thay chữ “vấn đề” bằng một
chữ khác, chẳng hạn như “chuyện”,
“việc” hoặc bỏ hẳn mà vẫn không làm
nghĩa của cụm từ thay đổi. Tóm lại, cách
dùng đó chỉ là thói quen ngôn ngữ mà thôi.
Khái niệm “vấn đề” trong đời thường
có nghĩa là “điều cần được quan tâm”, “điều
có ít nhiều khó khăn”. Sau đây là một số
cách diễn đạt quen thuộc trên sách báo,
trong đó chữ “vấn đề” có nghĩa như trên:
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học.
Vấn đề đánh giá kết quả học tập.
Vấn đề thay sách giáo khoa.
Vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học.
Vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ môi
trường cho học sinh.
Vấn đề việc làm của sinh viên, v.v.
Những vấn đề trên đây có thể đang là
mối quan tâm hàng đầu của ngành giáo
dục, và cần phải có nhiều cải tiến, đổi mới
cho tốt hơn. Nhưng để trở thành vấn đề
nghiên cứu khoa học thì chưa được, vì các
“vấn đề” này còn quá mơ hồ. Chúng mơ hồ
ở chỗ mỗi câu nêu trên chứa đựng nhiều
vấn đề nhỏ bên trong, trong đó có những
“vấn đề đúng” và “vấn đề sai”: “vấn đề
đúng”, tức vấn đề trong khoa học, là vấn đề
mà khoa học chưa thể giải thích bản chất
và nguyên nhân đầy đủ của nó, còn “vấn đề
sai” là vấn đề mà nhà nghiên cứu lặp lại
những điều mà khoa học đã biết: người ta
gọi trường hợp này là “đấm vào cánh cửa
đã mở”, vừa phí sức lại vừa phí thời gian,
tiền bạc
2.1.2. “Vấn đề” trong khoa học
Trong khoa học, người ta gọi “vấn đề”
là những hiện tượng mà kiến thức của cộng
đồng khoa học chưa thể giải thích được, và
nghiên cứu vấn đề ấy là nhằm xây dựng
kiến thức mới về bản chất và quy luật,
nguyên nhân của vấn đề ấy để mở rộng tri
thức của nhân loại. “Vấn đề” cũng có thể là
những hiện tượng đã được giải thích rồi
nhưng người nghiên cứu phát hiện ra cách
giải thích ấy chưa thỏa mãn một điều kiện
nào đó. Trong trường hợp này, nghiên cứu
là nhằm bổ sung kiến thức đã có để nó
ngày càng đầy đủ hơn. Cũng cần phải nhắc
lại rằng “giải quyết” vấn đề trong khoa học
không phải là giải quyết từng vụ việc như
mọi người thường làm trong cuộc sống
hàng ngày, mà là giải quyết vấn đề về mặt
lý thuyết, nghĩa là tìm cách giải thích bản
chất, quy luật, nguyên nhân, nguồn gốc của
vấn đề.
Để nhận dạng vấn đề trong khoa học,
người nghiên cứu cần dựa vào các đặc tính
sau đây:
- Hiện tượng không phù hợp nguyên
tắc chung đã biết.
Chẳng hạn như trường hợp sau đây:
nguyên tắc chung là nếu dành thời gian
càng nhiều cho một môn học nào đó thì
thành tích học tập sẽ cao (như người ta
thường nói “văn ôn võ luyện”). Thế nhưng
mặc dù đã học tiếng Anh gần 10 năm
nhưng nhiều sinh viên Việt Nam không sử
dụng được ngoại ngữ này, cả trong giao
tiếp trực tiếp lẫn trong giao tiếp gián tiếp
(đọc, viết). Hoặc lĩnh vực nào được quan
tâm đầu tư nhiều thì càng có điều kiện
XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CHO CÔNG TRÌNH KHÓA HỌC NHƯ THẾ NÀO?
10
thuận lợi để phát triển. Hiện nay, ở nước ta,
giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu.
Trong điều kiện như vậy, lẽ ra giáo dục
phải phát triển tốt đẹp. Thế nhưng, như mọi
người thấy, giáo dục càng ngày càng rối
rắm. Hai trường hợp này đi ngược lại quy
luật mà mọi người đều xem là đương
nhiên. Lúc ấy người nghiên cứu sẽ đặt câu
hỏi: Vì sao trình độ ngoại ngữ của sinh
viên không cao, mặc dù nhà trường đã dạy
từ lớp 6 cho đến đại học? Vì sao giáo dục
ngày càng xuất hiện nhiều vấn đề nan giải
mặc dù nhà nước đã xem đó là quốc sách
hàng đâu?
- Hiện tượng đó “đề kháng” với các giải
pháp mà xã hội đã áp dụng để cải tạo nó.
Trong giáo dục, từ nhiều năm nay nổi
lên vấn đề học sinh, sinh viên thụ động với
việc học trên lớp, thờ ơ với việc tự học ở
nhà, sống không hoài bão, xem nhẹ đạo đức
học đường, đạo đức xã hội, vô cảm với nạn
nhân của bạo lực Mặc dù toàn xã hội đã ý
thức được hậu quả của các hiện tượng này
đối với chất lượng đào tạo, tương lai của đất
nước, và ngành giáo dục cũng đã có nhiều
cố gắng khắc phục, nhưng tình hình vẫn
không khả quan, thậm chí còn có vẻ ngày
càng trầm trọng hơn. Tình hình đó có thể
được hiểu là việc “bắt mạch” nguyên nhân
chưa đúng, do đó, cần phải đi tìm nguyên
nhân khác, thích hợp hơn, để làm cơ sở
khoa học cho việc xây dựng giải pháp.
- Hiện tượng mà cộng đồng khoa học
chưa có nhiều kiến thức.
Trong thế giới tự nhiên cũng như xã
hội, có những hiện tượng mà kiến thức
khoa học của loài người còn rất ít, do đó,
không giải thích được chính xác các hiện
tượng. Những hiện tượng này có thể ghi
nhận được qua báo chí, thông tin khoa học,
tài liệu khoa học...
2.2. Xác định hiện tượng có vấn đề
cần làm nghiên cứu khoa học
Nguyên tắc chủ đạo của lý thuyết thực
nghiệm là muốn khắc phục được hiện
tượng, trước tiên, nhà nghiên cứu phải phát
hiện ra nguyên nhân (hoặc nguồn gốc) đã
gây nên hiện tượng đó, để từ đó làm cơ sở
khoa học cho việc xây dựng biện pháp
khắc phục sau này. Những giải pháp được
xây dựng không dựa trên việc nghiên cứu
tìm kiếm nguyên nhân chưa biết không
được xem là giải pháp có cơ sở khoa học.
Vì thế, khi xác định vấn đề nghiên cứu, nhà
khoa học cần phải khảo sát các khía cạnh
nêu trên, để bảo đảm rằng vấn đề mình
chọn vừa khả thi, vừa là vấn đề xác đáng
về mặt khoa học. GS. Ngô Bảo Châu cũng
đã nói:
“Điểm xuất phát của nghiên cứu bắt
đầu bằng câu hỏi. Thành công của nghiên
cứu liên quan nhiều đến câu hỏi ban đầu.
Để tìm ra câu hỏi đúng thì cần có kinh
nghiệm nghiên cứu. Trong môi trường hiện
đại, tính chuyên nghiệp cao, sinh viên tự
xác định được câu hỏi là việc khó vì chưa
có kinh nghiệm thì khó xác định đó có phải
vấn đề thời sự không, có trong khả năng
giải quyết không” (Ngô Bảo Châu, 2013b).
Nghiên cứu khoa học không phải là
gặp bất cứ vấn đề nào chưa ổn trong thực
tế là lấy ra làm đề tài nghiên cứu. Làm như
vậy không phải là nghiên cứu khoa học, mà
chỉ là nghiên cứu sự việc, hay nghiên cứu
công vụ, là hình thức thấp của nghiên cứu.
Nghiên cứu khoa học giáo dục chủ yếu là
đi tìm nguyên nhân chưa biết đến, chứ
không phải là nhắc lại những nguyên nhân
đã biết (việc tổng hợp các nguyên nhân đã
được các tài liệu đề cập đến chỉ là một
công đoạn của nghiên cứu, được gọi là
“Lược khảo tài liệu”). Khi chọn một hiện
tượng có vấn đề nào đó để nghiên cứu, tức
TRẦN THANH ÁI
11
là ta ngầm hiểu rằng có một quy luật, một
nguyên nhân sâu xa nào đó mà con người
chưa biết đến, và quy luật đó, nguyên nhân
đó chi phối hiện tượng. Vì thế, các nhà
khoa học chỉ nghiên cứu những hiện tượng
mà họ cảm thấy có quy luật (hay nguyên
nhân) nào đó mà cộng đồng chưa biết,
đang chi phối hiện tượng! Nếu chưa cảm
thấy có quy luật thấp thoáng đằng sau hiện
tượng thì ta chưa thể nghiên cứu, vì nghiên
cứu sẽ dễ rơi vào bế tắc.
Nhà khoa học luận người Pháp G.
Bachelard đã nói : “Mọi kiến thức khoa
học đều bắt đầu từ một câu hỏi”. Thế mà
mọi câu hỏi phải dựa trên việc phát hiện ra
hiện tượng (hay sự việc) có vấn đề. Nói
cách khác, mọi nghiên cứu khoa học đều
phải bắt đầu bằng việc phát hiện ra hiện
tượng có vấn đề. Như đã nói ở trên, đề tài
nghiên cứu ra đời từ quá trình quan sát
thực tế và đối chiếu giữa kiến thức của bản
thân với thực tế khách quan. Khi quan sát
thực tế, ta thường đối chiếu những gì quan
sát được với những gì ta biết được về thực
tế đó. Nếu sự đối chiếu đó cho kết quả
hoàn toàn trùng khớp thì kiến thức của ta
được củng cố. Nhưng nếu có sự sai lệch
giữa kiến thức mà ta có được với thực tế
thì ta sẽ có những thắc mắc, nghi vấn và
đặt ra hàng loạt câu hỏi. Tại sao có chuyện
này xảy ra ? Nguyên nhân của nó là gì ? Có
ai giải thích chưa ? Tại sao ta học như thế
này mà thực tế lại khác ? Có phải kiến thức
của ta đã sai ? Có hai trường hợp xảy ra :
kiến thức của cá nhân còn ít nên không giải
thích được hiện tượng, và kiến thức của
nhân loại bất lực trước hiện tượng.
2.2.1. Vấn đề sai (false problem)
Kiến thức của cá nhân còn hạn chế nên
không giải thích được hiện tượng, đó là
chuyện rất bình thường đối với mọi người,
kể cả đối với nhà khoa học giàu thành tích
nhất. Trong trường hợp này, cá nhân phải
tự tìm tòi và sưu tầm tài liệu đề cập đến các
giải thích có thể về hiện tượng để bổ sung
kiến thức của mình ngày càng nhiều hơn.
Đây chính là giai đoạn tự học mà bất cứ
nhà khoa học nào cũng phải trải qua: trước
khi làm nhà nghiên cứu, mỗi cá nhân phải
làm người tự học! Việc tự học này không
giới hạn trong phạm vi kiến thức được viết
bằng tiếng mẹ đẻ, mà phải mở rộng ra cả
những tài liệu bằng tiếng nước ngoài, nhất
là tiếng Anh. Việc tự học này nhằm nâng
cao mặt bằng kiến thức của người nghiên
cứu lên ngang với mặt bằng kiến thức của
nhân loại. Đây chính là điều kiện tiên quyết
của việc khám phá ra kiến thức mới. Nếu
không nâng tầm kiến thức của cá nhân mà
đã vội vã xác định vấn đề để nghiên cứu thì
sẽ chỉ có được vấn đề sai mà thôi.
2.2.2. Vấn đề có tính xác đáng khoa học
Trong tự nhiên hay trong xã hội, luôn
luôn xuất hiện những sự vật và hiện tượng
hoàn toàn mới lạ. Vì mới lạ nên con người
chưa có chút kiến thức nào về nó, khiến
khoa học bất lực, không giải thích được.
Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều sự việc và
hiện tượng mà loài người chỉ biết chút ít;
thậm chí có nhiều việc người ta biết chưa
chính xác. Đó chính là nguồn cung cấp vấn
đề cần nghiên cứu, để nhà khoa học tìm
kiếm, xây dựng kiến thức mới. Khi phát
hiện ra sự hụt hẫng hoặc sự thiếu chính xác
đó, nhà khoa học sẽ tiến hành thiết kế
nghiên cứu để làm cho kiến thức ngày càng
hoàn thiện hơn. Nói cách khác, khi phát
hiện ra kiến thức của cộng đồng khoa học
bất lực trước một hiện tượng hay sự vật
nào đó thì nhà khoa học mới nghiên cứu.
Bằng cách xác định như thế, vấn đề nghiên
cứu mới được xem là có tính xác đáng
khoa học.
Vì thế, một vấn đề được mọi người
XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CHO CÔNG TRÌNH KHÓA HỌC NHƯ THẾ NÀO?
12
quan tâm chưa chắc đã là vấn đề cần làm
nghiên cứu khoa học. Đối với dư luận xã
hội, người ta quan tâm đến mọi chuyện có
hại, gây hậu quả xấu. Đó là sự quan tâm ở
góc độ thực d