Xây dựng tổ chức quản lý hệ thống thủy lợi nội đồng hiệu quả, bền vững phục vụ xây dựng nông thôn mới

Tóm tắt: Các tổ chức quản lý hệ thống thủy lợi nội đồng có vai trò quan trọng trong quản lý khai thác công trình thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh. Bài báo này đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của các tổ chức dùng nước, từ đó đề xuất mô hình quản lý hệ thống thủy lợi nội đồng phù hợp cho các vùng m iền và các chỉ tiêu đánh giá tổ chức quản lý hiệu quả, bền vững hệ thống thủy lợi nội đồng phục vụ xây dựng nông thôn mới.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 25 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng tổ chức quản lý hệ thống thủy lợi nội đồng hiệu quả, bền vững phục vụ xây dựng nông thôn mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP C HÍ KHOA HỌC VÀ CÔ NG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 30 - 2015 1 XÂY DỰNG TỔ CHỨC QUẢN LÝ HỆ THỐNG THỦY LỢ I NỘI ĐỒNG HIỆU Q UẢ, BỀN VỮNG PHỤC VỤ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI PGS.TS Nguyễn Tùng Phong, PGS.TS Trần C hí Trung, KS. Đinh Vũ Thùy Viện Khoa học Thủy lợi Việ t Nam Tóm tắt: Các tổ chức quản lý hệ thống thủy lợi nội đồng có va i trò quan trọng trong quản lý khai thác công trình thủy lợi phục vụ sản xuấ t nông nghiệp và dân sinh. Bà i báo này đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của các tổ chức dùng nước, từ đó đề xuất mô hình quản lý hệ thống thủy lợi nộ i đồng phù hợp cho các vùng m iền và các chỉ tiêu đánh g iá tổ chức quản lý hiệu quả, bền vững hệ thống thủy lợi nội đồng phục vụ xây dựng nông thôn mới. Từ khóa: Tổ chức dùng nước, thủy lợi nội đồng, hiệu quả, bền vững, nông thôn mới Abstract: The organizations m anaging on-farm irrigation system play an im portant role in m anaging irriga tion schem es to provide water for agriculture production and domestic use. Based on the assessm ent of the actual situation of organization and opera tion of the organizations managing irriga tion schem es in comm unes, this paper proposes the model of organizations m anaging on-farm irrigation system for different reg ions and criteria for assessing the organizations managing on-farm irrigation system effectively and sustainab ly to im plement irrigation criteria for new rural development Key words: Water user organization, on-farrm irrigation system, effectively and sustainably, new rural development 1. ĐẶT VẤN ĐỀ * Chương trình “Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới“ đã tạo ra cơ hội thuận lợi cho các xã xây dựng, hoàn thiện hệ thống thủy lợi nội đồng do Chương trình xây dựng nông thôn mới hiện nay là phong trào đang được cả xã hội quan tâm, được triển khai tích cực, sâu rộng trên địa bàn cả nước. Trên cơ sở Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới của Chính phủ, Bộ Nông ngh iệp và phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số 41 ngày 04 tháng 10 năm 2013 hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Theo đó, các xã đạt tiêu chí thuỷ lợi khi đáp ứng đủ 2 yêu cầu: (1) Đạt tỷ lệ kiên cố hóa kênh mương theo quy định và (2) Có hệ thống thủy lợi cơ bản đáp ứng yêu Người phản biện: PGS.TS. Nguyễn Thế Q uảng Ngày nhận bài: 28/10/2015 Ngày thông qua phản biện: 9/11/2015 Ngày duyệt đăng: 15/12/2015 cầu sản xuất và dân sinh. Trong đó tiêu ch í có hệ thống thủy lợ i cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và dân sinh có ch ỉ tiêu về tổ chức (Hợp tác xã hoặc Tổ hợp tác) quản lý khai thác và bảo vệ công trình, đảm bảo kênh mương, cống, kè, đập, bờ bao được vận hành có h iệu quả bền vững, phục vụ cho sản xuất, dân sinh, được đa số người dân hưởng lợi đồng thuận. Điều này có nghĩa là xây dựng các tổ chức quản lý hệ thống thủy lợi nội quản lý hiệu quả bền vững công trình thủy lợi là yêu cầu quan trọng để thực hiện tiêu ch í thủy lợi trong xây dựng nông thôn mới. Theo báo cáo kết quả đánh giá tiêu chí thủy lợ i của 54 tỉnh, tính đến tháng 6/2015 tỷ lệ bình quân các xã đạt tiêu chí thủy lợi là 50%, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long và vùng Đông Nam Bộ đạt tỷ lệ cao nhất là trên 70%, vùng Đồng bằng sông Hồng đạt tỷ lệ thấp nhất là 32%, còn các vùng khác đạt khoảng 40% [1]. Thực tế cho thấy, các tổ chức dùng nước KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP C HÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 30 - 2015 2 góp phần quan trọng để duy trì và phát huy hiệu quả của công trình thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, dân sinh. Tuy nhiên công tác quản lý thủy nông cơ sở ở nh iều địa phương còn chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến hiệu quả hoạt động của tổ chức quản lý công trình thủy lợi còn kém hiệu quả. Do vậy việc ngh iên cứu đề xuất các giải pháp xây dựng tổ chức quản lý hệ thống thủy lợi nộ i đồng hiệu quả, bền vững là cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao trong việc nâng cao hiệu quả quản lý khai thác công trình thủy lợi, đồng thời giúp cho các địa phương thực hiện tiêu chí thủy lợ i trong xây dựng nông thôn mới. 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA C ÁC TỔ CHỨC QUẢN LÝ HỆ THỐNG THỦY LỢI NỘ I ĐỒNG 2.1 Số lượng, loại hình các tổ chức Các tổ chức quản lý hệ thống thủy lợi nội đồng hay còn gọi là các Tổ chức dùng nước hiện nay tồn tại theo nhiều loại hình, thể hiện tính đa dạng theo điều kiện địa hình, dân sinh, kinh tế xã hội, phong tục tập quán, đặc thù và quy mô công trình thủy lợi của từng vùng, miền trong cả nước. Theo số liệu báo cáo của Tổng cục thủy lợi (2012) cả nước có 16.238 Tổ chức dùng nước [2]. Trên cơ sở tổng hợp báo cáo kết quả đánh giá tiêu chí thủy lợi đến tháng 6/2015 của 54 tỉnh ở 7 vùng trên cả nước, các loại hình Tổ chức dùng nước theo vùng miền ở nước ta được thể hiện ở Bảng 1. Bảng 1. Các loại hình tổ chức dùng nước theo vùng m iền ở nước ta Vùng Tổng số Số lượng HTX NN HTX chuyên khâu Tổ hợp tác Ban QL Thủy nông Ban thủy lợi xã Miền núi phía Bắc 4,026 583 383 2,409 521 126 Đồng bằng sông Hồng 1,586 1,349 232 5 0 0 Bắc Trung bộ 1,755 1,286 62 394 4 7 Nam Trung bộ 924 317 7 502 98 0 Tây Nguyên 93 21 0 32 0 40 Đông Nam bộ 71 6 0 58 6 1 Đồng bằng sông Cửu Long 6,558 436 6 6,082 34 0 Tổng cộng Số lượng 15,013 3,998 690 9,448 663 174 Tỷ lệ (%) 100 27 5 63 4 1 Nguồn: Báo cáo đánh giá tiêu ch í thủy lợi của 54 tỉnh (6/2015) Theo số liệu ở Bảng 1, các Tổ chức dùng nước bao gồm 3 loại hình chủ yếu là: (i) Hợp tác xã có làm dịch vụ thủy lợi gồm Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và Hợp tác xã chuyên khâu thủy nông, (ii) Tổ hợp tác và (iii) Ban quản lý thủy nông bao gồm cả Ban quản lý thủy lợi xã. Trong đó, Hợp tác xã và Tổ hợp tác là hai loạ i hình chính chiếm tới 94% tổng số Tổ chức dùng nước trên phạm vi toàn quốc. Loại hình Hợp tác xã (HTX) chiếm 32% tổng số tổ chức KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP C HÍ KHOA HỌC VÀ CÔ NG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 30 - 2015 3 dùng nước, trong đó Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp là chủ yếu chiếm 27%, Hợp tác xã chuyên khâu thủy nông chỉ chiếm 5%. Loại hình HTX hoạt động ở hầu hết các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ và một số tỉnh ở vùng Miền núi phía Bắc. Ở vùng Tây Nguyên, loại hình Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp là không đáng kể, ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long loại hình Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp hoạt động chủ yếu là ở các tỉnh đầu nguồn như An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang những nơi mà diện tích canh tác lúa được khép kín bằng hệ thống đê bao, bờ bao. Loại hình Tổ hợp tác gồm Hội sử dụng nước, Tổ hợp tác, Tổ, Đội thủy nông chiếm 63% phổ biến ở các tỉnh vùng Miền núi phía Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long. Ở vùng Miền núi phía Bắc, loại hình Tổ hợp tác chiếm 56% số tổ chức trong vùng và ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long loại hình Tổ hợp tác chiếm tới 92% số tổ chức trong vùng. Tuy nhiên trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long có một số tỉnh gần như chưa có các tổ hợp tác như Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau. Loại hình Ban quản lý thủy nông chiếm 4% tổng số Tổ chức dùng nước, tập trung phần lớn ở các tỉnh Cao Bằng, Yên Bái vùng Miền núi phía Bắc, tỉnh Quảng Nam vùng Nam Trung Bộ, trong khi đó loại hình Ban quản lý thủy lợi xã chỉ chiếm 1% hoạt động chủ yếu ở tỉnh Lào Cai, Lai Châu vùng Miền núi phía Bắc và tỉnh Đắc Nông vùng Tây Nguyên. 2.2 Loại hình Hợp tác xã + Tư cách pháp lý: Các HTX quản lý công trình thủy lợi hoạt động theo luật Hợp tác xã nên có con dấu, tài khoản, giấy phép đăng ký kinh doanh, có điều lệ và quy chế hoạt động, có trụ sở làm việc. Tuy nhiên, ở hầu hết các địa phương các HTX chưa thực h iện chuyển đổi theo mô hình HTX mới theo Luật HTX (2012). Đến nay mới có một số địa phương thực hiện chuyển đổ i theo mô hình HTX mới như tỉnh Hà Nam, Thanh Hóa, Quảng Bình và Thừa Thiên-Huế , Bình Thuận, Bà Rịa-Vũng Tầu, An Giang, Kiên Giang. + Quy m ô hoạt động: Theo quy mô diện tích tưới, các HTX có diện tích phục vụ trung bình là 100-300 ha, nhỏ nhất là 30 ha, lớn nhất là 1.000ha. Ở vùng Miền núi ph ía Bắc và Tây Nguyên các HTX có quy mô khá nhỏ từ 30 đến 200 ha, ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ các HTX có quy mô phổ biến từ 100 đến 300ha. Theo kết quả điều tra tại 14 xã ở huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh vùng Đồng bằng sông Hồng (2013) thì các HTX có diện tích phục vụ từ 50 đến 100ha chiếm 70% và từ 100 đến 200ha chiếm 30% [3]. Kết quả điều tra tại 45 xã ở 3 tỉnh Nghệ An, Hà T ĩnh và Thừa Thiên-Huế ở vùng Bắc Trung bộ (2013) cho thấy các HTX có diện tích phục vụ từ 50 đến 100ha ch iếm 40%, từ 100 đến 200ha chiếm 50% và trên 200 ha chỉ chiếm 10% [4]. Trong khi đó ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long hầu hết các HTX có quy mô khá lớn, trung bình là 300-500ha [5]. Các HTX ở hệ thống Bắc Vàm Nao, tỉnh An Giang có quy mô theo tiểu vùng nên có diện tích khá lớn từ 300-1.000ha. Theo quy mô hành chính, hầu hết các HTX có quy mô hoạt động trong phạm vi thôn, liên thôn, xã. Ví dụ như ở huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh 100% các HTX có quy mô thôn, liên thôn. Các HTX ở 3 tỉnh Nghệ An, Hà T ĩnh và Thừa Thiên-Huế có quy mô thôn, liên thôn chiếm 72% số tổ chức, đặc biệt ở tỉnh Thừa Thiên- Huế các HTX có quy mô thôn, liên thôn chiếm tới 91%. Một số HTX ở hệ thống Bắc Vàm Nao, tỉnh An Giang có hoạt động theo tiểu vùng nên có quy mô xã và liên xã. Hoạt động của HTX làm dịch vụ thủy lợi bao gồm hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp, phổ biến là 5 đến 10 dịch vụ, trong đó dịch vụ thủy lợi là chủ yếu, chiểm 70-100% doanh thu của các HTX. Trong khi đó, hầu hết các HTX ở vùng Miền núi ph ía Bắc, Tây Nguyên chỉ thực hiện dịch vụ thủy lợi, hầu như không thực hiện các dịch vụ khác, gần giống như loại hình HTX chuyên khâu thủy nông. KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP C HÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 30 - 2015 4 + Vận hành, bảo dưỡng công trình: Các HTX thành lập các tổ thủy nông để thực h iện nhiệm vụ vận hành, dẫn nước tới mặt ruộng cho ngườ i dùng nước. Hoạt động bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên được thực hiện theo 2 hình thức chủ yếu là thuê nhân công, doanh nghiệp thực hiện hay huy động công lao động của người dùng nước để nạo vét, tu bổ kênh mương. Hình thức huy động công lao động của người dùng nước để nạo vét, tu bổ kênh mương được thực hiện ở nhiều địa phương, nhất là ở vùng Miền núi phía Bắc, trong khi đó h ình thức thuê doanh ngh iệp thực h iện bảo dưỡng, sửa chữa công trình được thực h iện phổ biến ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. + Khả năng tự chủ tài chính: Nguồn thu chủ yếu của các HTX là từ thủy lợ i phí, mà phần lớn từ nguồn cấp bù chiếm khoảng 70-80%, nguồn thu từ các hoạt động kinh doanh, dịch vụ khác và từ nguồn thu phí thủy lợi nội đồng khoảng 20-30%. Nguồn kinh phí cấp bù thủy lợi phí đã tạo điều kiện cho các HTX đảm bảo tự chủ tài chính nên hoạt động quản lý khai thác công trình của các HTX quản lý công trình thủy lợi nhỏ độc lập ngày một thuận lợi, công tác tướ i, tiêu ngày càng chủ động, phục vụ tốt hơn yêu cầu sản xuất. Một số tỉnh quy định về tỷ lệ chi phí cho vận hành, bảo dưỡng công trình (O&M) chiếm khoảng 50-80% k inh phí cấp bù thủy lợi phí. Ví dụ tỉnh Cao Bằng quy định tỷ lệ cho O&M là 50-55%, tỉnh Bắc Kạn quy định tỷ lệ này tới 80% [6]. Ngoài nguồn thu từ kinh phí cấp bù thủy lợ i phí, các HTX còn thu phí thủy lợ i nộ i đồng để thực hiện quản lý vận hành bảo dưỡng công trình thủy lợ i trên địa bàn xã. Hiện nay, một số tỉnh đã quy định về mức trần phí thủy lợ i nội đồng với mức quy định và thực tế thu phí thủy lợi nộ i đồng được thể h iện ở Bảng 3. Ở vùng Miền núi phía Bắc các tỉnh quy định mức trần phí thủy lợi nội đồng từ 3-30% kinh phí cấp bù thủy lợi phí, trong đó tỉnh Bắc Giang quy định mức phí thủy lợ i nội đồng thấp nhất là 28 ngh ìn đồng/ha/vụ (3%) và tỉnh Quảng Ninh quy định mức phí thủy lợ i nộ i đồng cao nhất là 543 nghìn đồng/vụ (30%) [6]. Các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ và Nam Trung Bộ quy định mức phí thủy lợ i nội đồng từ 140-700 ngh ìn đồng/ha/vụ [3], [4]. Ở một số tỉnh vùng Bắc Trung Bộ, các HTX thu phí thủy lợi nội đồng cao hơn quy định của tỉnh, tỷ lệ thu phí thủy lợi nội đồng vượt quy định ở tỉnh Nghệ An là 41%, ở tỉnh Hà Tĩnh là 15% và ở tỉnh Thừa Thiên- Huế tới 93%. Nhiều tỉnh ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long không quy định về mức trần phí thủy lợi nội đồng mà mức thu ph í thủy lợi nộ i đồng là do hiệp thương giữa các tổ chức quản lý thủy nông và người dùng nước vớ i mức phí khá cao so vớ i các vùng khác, từ 600-1.800 nghìn đồng/ha/vụ. Bảng 2. Quy định và thực tế thu phí thủy lợi nội đồng ở một số vùng Đơn v ị: 1000 đồng /ha/vụ TT Vùng Mức trần phí thủy lợi nội đồng Mức thu phí thủy lợi nội đồng thực tế Tỷ lệ thu (%) 1 Miền núi phía Bắc 28- 543 28- 543 30-50 2 Đồng bằng sông Hồng 300-700 300-700 80-95 3 Bắc Trung Bộ 140- 700 200- 900 80-85 4 Đồng bằng sông Cửu Long - 600-1.800 80-85 Nguồn: Các báo cáo điều tra của Trung tâm PIM (2013-2015) KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP C HÍ KHOA HỌC VÀ CÔ NG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 30 - 2015 5 [5] Mức phí thủy lợi đồng cao do các HTX quản lý trạm bơm điện nhỏ, hệ thống đê bao, bờ bao nội đồng nhưng không được cấp bù thủy lợi phí. Các tỉnh vùng thượng nguồn, nơ i có diện tích đất nông nghiệp cần bơm và khả năng phát triển vụ 3 lớn, lợi nhuận từ sản xuất lúa cao nên nông dân sản xuất lúa sẵn sàng trả cho dịch vụ tưới tiêu tới 1.200 đến 1.800 đ/ha/vụ, trong khi đó ở các tỉnh ở vùng hạ nguồn và 2 tỉnh thiếu nguồn nước ngọt là Bạc Liêu, Cà Mau thủy lợi phí nộ i đồng thường thấp hơn, khoảng 600-1.000 ngàn đ/ha/vụ. + Hiệu quả hoạt động của loại hình HTX: - Các Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, Hợp tác xã chuyên khâu thủy nông có tư cách pháp nhân, tài khoản và con dấu, có trụ sở làm việc hoạt động thuận lợi trong công tác quản lý, sử dụng kinh ph í cấp bù thủy lợi phí. Phần lớn các HTX đang hoạt động khá tốt dịch vụ thủy lợi đảm bảo tướ i tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Một số HTX chuyên khâu thủy nông hoạt động kém hiệu quả có nguy cơ bị tan rã do mức thu từ cấp bù thủy lợi phí thấp, trong khi không thu được phí thủy lợi nộ i đồng nên không đảm bảo tài chính cho công tác quản lý, vận hành công trình, như các HTX ở hệ thống Dầu Tiếng, Tây Ninh. - Một số HTX ở vùng ĐBSCL hoạt động theo xu hướng xã hội hóa tương đối hiệu quả, tuy nhiên mức thu và lãi quá cao mà chỉ tập trung vào số ít hộ hưởng lợi có tham gia đóng góp cổ phần - Việc thu phí thủy lợi nội đồng chưa được thực hiện tốt ở nhiều địa phương do chưa có quy định mức trần phí thủy lợi nội đồng. 2.3 Loại hình Ban quản lý thủy nông + Tư cách pháp lý: Ban quản lý thủy nông xã được UBND cấp huyện hoặc cấp xã quyết định thành lập, có tư cách pháp nhân, được mở tài khoản để hoạt động. Ban sử dụng con dấu và trụ sở của Uỷ ban nhân dân xã. Ban quản lý thủy nông có quy chế hoạt động được UBND huyện hoặc xã phê duyệt. + Vận hành, bảo dưỡng công trình: Ban quản lý thủy nông xã làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, dưới các Ban quản lý thủy nông xã là các tổ quản lý thủy nông quy mô thôn, bản thực hiện vận hành, bảo dưỡng công trình thủy lợi. Nguồn thu của các Ban quản lý thủy nông chủ yếu từ nguồn cấp bù thủy lợi phí, tỷ lệ ch i cho Ban quản lý chỉ khoảng 5-10% còn 90- 95% chi cho hoạt động vận hành, bảo dưỡng công trình. + Hiệu quả hoạt động của loạ i hình Ban quản lý thủy nông: - Ban quản lý thủy nông hoạt động kiêm nhiệm nên có bộ máy tổ chức tinh gọn, sử dụng con dấu của UBND xã, bộ máy nhân sự có chuyên môn gắn được vai trò, trách nhiệm của chính quyền trong công tác quản lý thủy nông cơ sở, thuận lợi trong việc quản lý và thanh quyết toán tài chính ở địa phương, nhất là các địa phương vùng miền núi. - Ban quản lý thủy nông đã phát huy được sự tham gia của người dùng nước qua các tổ quản lý thủy nông thôn, bản. - Tuy nhiên, mô hình Ban quản lý thủy nông xã chưa phải là mô hình tổ chức dùng nước hoàn chỉnh, nhiều trường hợp ban ch ỉ là cấp trung gian để giúp UBND xã quản lý các tổ quản lý thủy nông trong xã làm dịch vụ tướ i. 2.4 Loại hình Tổ hợp tác + Tư cách pháp lý: Loạ i hình Tổ hợp tác gồm Hội sử dụng nước, Tổ hợp tác, Tổ, Đội thủy nông được chủ tịch UBND xã ký quyết định thành lập và phê duyệt điều lệ, quy chế hoạt động. Các Tổ hợp tác chưa đảm bảo tư cách pháp nhân để nhận kinh phí cấp bù thủy lợ i phí, sử dụng con dấu của xã để thực hiện các giao dịch về dịch vụ thủy lợ i. + Quy m ô hoạt động: Các Tổ hợp tác quản lý công trình thủy lợi có quy mô nhỏ, phục vụ diện tích tưới tiêu không lớn có phạm vi thôn, liên thôn chủ yếu tập trung ở địa phương không thành lập được Hợp tác xã. Mặc dù xuất KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠP C HÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 30 - 2015 6 hiện ở nhiều nơi, nhưng loại hình Tổ hợp tác chủ yếu tập trung ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Các Tổ hợp tác ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long có quy mô ấp, liên ấp nhưng phụ trách diện tích lớn hơn các vùng khác, đặc biệt là các Tổ hợp tác ở hệ thống Bắc Vàm Nao, tỉnh An Giang có quy mô xã, phục vụ diện tích tưới tiêu tới 1.000ha. + Vận hành, bảo dưỡng công trình: Các Tổ hợp tác có các thủy nông viên để thực hiện nhiệm vụ vận hành, điều tiết dẫn nước tới mặt ruộng cho người dùng nước. Hầu hết các Tổ hợp tác huy động công lao động của ngườ i dùng nước để nạo vét, tu bổ kênh mương. + Khả năng tự chủ tài chính: Các Tổ hợp tác quản lý công trình thủy lợi độc lập được cấp bù kinh phí miễn giảm thủy lợi phí tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý công trình hiệu quả hơn. Một số tổ hợp tác có khả năng đảm bảo về kinh phí cho công tác quản lý vận hành, bảo dưỡng công trình như Tổ hợp tác hồ Bàu Zôn ở Ninh Thuận, Tổ hợp tác ở hệ thống Bắc Vàm Nao, tỉnh An Giang. Hầu hết các Tổ hợp tác có nguồn thu chỉ đáp ứng được khoảng 70% chi phí, chủ yếu là chi cho công tác quản lý vận hành, thiếu kinh phí cho công tác duy tu bảo dưỡng công trình. Việc thu phí thủy lợi nội đồng chưa được thực hiện tốt ở nhiều địa phương do các tỉnh chưa có quy định mức trần về phí thủy lợi nội đồng và do chính quyền địa phương chưa quan tâm đến hoạt động của các Tổ hợp tác. Một số địa phương ở vùng Miền núi phía Bắc gặp khó khăn trong việc thực hiện cấp bù thủy lợi phí cho các địa phương do các tổ hợp tác không có tư cách pháp lý đầy đủ. Điều này làm ảnh hưởng đến khả năng tự chủ tài chính của các Tổ hợp tác. + Hiệu quả hoạt động của loạ i hình Tổ hợp tác: Nhìn chung các Tổ hợp tác hoạt động hiệu quả thấp, một số tổ chức tồn tại mang tính hình thức không hoạt động được.  Các Tổ hợp tác chủ yếu có quy mô thôn và liên thôn, phụ trách diện tích tưới khá nhỏ dẫn đến h iệu quả quản lý công trình thủy lợi thấp.  Các Tổ hợp tác không có tư cách pháp nhân đầy đủ nên hoạt động khó khăn xuất phát từ việc khó triển khai và quản lý nguồn cấp bù thủy lợi phí, nên không có nguồn thu, không tự chủ được tài chính.  Năng lực độ i ngũ cán bộ của các Tổ hợp tác còn hạn chế, đội ngũ cán bộ chủ chốt thường xuyên bị thay đổi (theo nhiệm kỳ), chế độ thù lao, đãi ngộ chưa phù hợp.  Cơ sở vật chất, trang thiết bị của các Tổ hợp tác còn nghèo nàn, phần lớn chưa có trụ sở làm việc. 3. ĐỀ XUẤT MỘ T SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG TỔ CHỨC Q UẢN LÝ HỆ THỐNG THỦY LỢ I NỘI ĐỒNG PHỤC VỤ XÂY DỰNG NÔ NG THÔN MỚI Xây dựng các tổ chức quản lý h iệu quả bền vững hệ thống thủy lợ i nội đồng là yêu cầu quan trọng để thực hiện tiêu ch í thủy lợi phục vụ xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của các tổ chức ch ịu sự tác động của nhiều yếu tố như về thể chế, tài chính, kỹ thuật, xã hộ i. Trong khuôn khổ của nghiên cứu này, các giả i pháp xây dựng các tổ chức dùng nước quản lý hiệu quả bền
Tài liệu liên quan