Tóm tắt
Bài viết cập nhật tình hình đầu tư E-Learning ứng với doanh thu của các quốc
gia đầu tư mạnh tay nhất cho phương pháp đào tạo tiên tiến này. Bài viết cũng tham
khảo số liệu đầu tư E-Learning phục vụ cho đào tạo tách từ tổng mức đầu tư trong
nhiều lĩnh vực liên quan đến đào tạo. Bằng những dự đoán cụ thể, bài viết đưa ra
ước đoán về xu hướng phát triển đến năm 2021. Phần tiếp theo phân tích xu hướng
đầu tư vào công nghệ đào tạo thông qua các hình thức cụ thể. Phần cuối bài viết tập
trung vào các định hướng kêu gọi đầu tư E-Learning, phát triển start-up, các chiến
lược nhỏ hơn để phổ biến, phát triển E-Learning trong các cấp phổ thông.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xu hướng toàn cầu đầu tư vào công nghệ đào tạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
85
XU HƯỚNG TOÀN CẦU ĐẦU TƯ VÀO CÔNG NGHỆ ĐÀO TẠO
NCS.TS. Trương Thị Bích Loan
IPA Quảng Ninh Việt Nam
NCS.TS. Trương Tiến Bình
Trường Đại học Quảng Tây, Trung Quốc
Tóm tắt
Bài viết cập nhật tình hình đầu tư E-Learning ứng với doanh thu của các quốc
gia đầu tư mạnh tay nhất cho phương pháp đào tạo tiên tiến này. Bài viết cũng tham
khảo số liệu đầu tư E-Learning phục vụ cho đào tạo tách từ tổng mức đầu tư trong
nhiều lĩnh vực liên quan đến đào tạo. Bằng những dự đoán cụ thể, bài viết đưa ra
ước đoán về xu hướng phát triển đến năm 2021. Phần tiếp theo phân tích xu hướng
đầu tư vào công nghệ đào tạo thông qua các hình thức cụ thể. Phần cuối bài viết tập
trung vào các định hướng kêu gọi đầu tư E-Learning, phát triển start-up, các chiến
lược nhỏ hơn để phổ biến, phát triển E-Learning trong các cấp phổ thông.
Từ khóa: E-Learning toàn cầu, đầu tư E-Learning, xu hướng E-Learning,
chính sách cho E-Learning, tương lai E-Learning, E-Learning stratergy, E-Learning
orientation
Thị trường đào tạo E-Learning toàn cầu chỉ còn 32,5 tỷ USD vào năm 2025
[1]. Việt Nam với hệ thống phát triển nền tảng chậm hơn, các ứng dụng phát triển
chậm hơn so với nhiều quốc gia phát triển. Liệu chúng ta có theo kịp cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0? Liệu đây có là cơ hội để chúng ta tiết kiệm mọi nguồn lực, đạt mục
tiêu hướng tới xã hội học tập, dùng tri thức để phát triển. Chúng ta cần nỗ lực để trở
thành một phần trong chu kỳ phát triển đó, các nỗ lực đó luôn cần có quá trình đầu tư
không nhỏ. Sử dụng mọi nguồn lực trong nước hoặc kêu gọi các nguồn đầu tư nước
ngoài đang là những vấn đề không dễ cạnh tranh với nhiều quốc gia/khu vực khác
trên thế giới. Bài viết này tập trung vào các xu hướng đầu tư toàn cầu về lĩnh vực E-
Learning làm kinh nghiệm tham khảo, điều chỉnh các chính sách, ngành/lĩnh vực thu
hút đầu tư phù hợp hơn với tình hình hiện nay.
1. Thực trạng đầu tư E-Learning toàn cầu
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo nên chuỗi sản phẩm công nghệ, công
nghệ ứng dụng hiện đại, khiến quá trình kết nối con người với tri thức nhân loại bằng
nhiều phương thức khác nhau, bạn có thể kết nối với thế giới mọi nơi mọi lúc bằng
các sản phẩm công nghệ để phục vụ công việc cũng như học tập hàng ngày. Xem xét
các con số thống kế sau để hiểu hơn về thị trường đào tạo E-Learning.
Theo bảng dự báo lợi nhuận từ E-Learning chỉ riêng năm 2016 tổng doanh thu
từ E-Learning toàn cầu đạt 46,6 tỷ USD giảm nhẹ so với năm 2015 là 46,9 tỷ USD,
86
nhưng đến năm 2021 có xu thế giảm còn 33,4 tỷ USDi. Tức là xu hướng doanh thu
giảm so với những năm trước đây. Liệu con số dự báo giảm có chính xác!?
ĐVT: triệu USD
Vùng 2016 2017 2018 2019 2020 2021 +/-
Bắc Mỹ 23.337,4 22.258,8 21.605,2 20.003,6 18.357,0 16.967,0 -6,2%
Nam Mỹ 2.106,0 1.930,4 1.732,9 1.565,0 1.328,4 1.189,0 -10,8%
Tây Âu 7.978,6 8.318,7 8.386,8 8.096,4 7.703,8 7.403,0 -1,5%
Đông Âu 1.024,8 1.125,9 1.298,8 1.221,7 1.116,9 967,8 -1,1%
Châu Á 10.936,5 10.757,6 9.280,8 8.245,4 6.848,2 5.847,8 -11,7%
Trung Đông 683,7 708,3 729,4 700,1 586,3 460,4 -7,6%
Châu Phi 607,7 716,0 806,3 833,2 754,6 636,3 0,9%
Tổng cộng 46.674,7 45.815,7 43.840,2 40.665,4 36.695,2 33.498,2 -6,4%
Thực tế chỉ ra cho thấy thị trường Đông Âu giảm doanh thu là 1,8%, tại Anh
từng là nơi có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất Tây Âu cũng giảm mạnh 5,1% với mức
doanh thu từ 973 triệu USD sẽ giảm còn 747,3 triệu vào năm 2021. Thị trường Bắc
Mỹ cũng giảm mạnh tới 6,2% dự kiến còn 6,3 tỷ USD doanh thu vào năm 2021.
Nhìn kỹ hơn vào thị trường nội dung cụ thể qua các năm theo bảng dưới đây
cho thấy các khía cạnh từ đóng gói sản phẩm (Packaged Content) giảm dần ở mức
7,3%, xây dựng nền tảng dữ liệu (Platforms) giảm ở mức 14,6%, dịch vụ E-Learning
(Services) có thể tăng ở mức 3,4% đạt 22,5 tỷ USD. Chỉ đơn cử việc giảm doanh thu
tại Mỹ liên quan đến các chính sách đầu tư của Chính phủ, hay việc giảm doanh thu
tại Trung Quốc liên quan đến việc giảm quá trình số hóa tài liệu đã đến mức bão hòa.
ĐVT: triệu USD
Nhóm
sản phẩm
2016 2017 2018 2019 2020 2021 +/-
Đóng gói sp 33.062,80 32.065,14 30.444,82 28.130,00 25.189,35 22.598,11 -7,3%
Dịch vụ 6.490,38 6.898,56 7.161,09 7.333,42 7.502,12 7.657,60 3,4%
Nền dữ liệu 7.121,49 6.851,99 6.234,27 5.201,97 4.003,76 3.242,50 -14,6%
Tổng cộng 46.674,67 45.815,69 43.840,18 40.665,39 36.695,23 33.498,21 - 6,4%
Có 25 quốc gia đạt doanh thu E-Learning trên 300 triệu USD/năm, trong đó tỷ lệ
tăng trưởng âm 19 quốc gia và ngang bằng ở 2 quốc gia. Ngoại trừ trong top 25 này có 4
quốc gia dự đoán số tăng trưởng dương là Indonesia, Ba Lan, Đức và Cộng hòa Czech.
Điều đáng ngạc nhiên là Indonesia sẽ có tỷ lệ tăng trưởng tới 14,3% đứng vị trí 17 vào
năm 2016 nhưng sẽ đứng số 8 trên thế giới vào năm 2021. Môi trường đầu tư vào Ba
Lan, Đức, Cộng hòa Czech cũng rất hấp dẫn lần lượt ở mức 5,2%, 0,2% và 1,0%.
87
Trường hợp của Brazil trong vòng luẩn quẩn của suy thoái kinh tế với tỷ lệ thất
nghiệp cao, tăng thuế, giá trị đồng tiền giảm, lạm phát cao Năm 2015 đã cắt giảm
ngân sách hàng năm cho giáo dục từ 6 tỷ USD còn 400 triệu USD khiến doanh thu từ
E-Learning của nước này giảm mạnh từ 970,8 triệu USD năm 2016 còn 322,8 triệu
USD năm 2021.
Nếu so sánh lĩnh vực kinh doanh tại Mỹ thì doanh thu từ E-Learning giảm
mạnh theo bảng số liệu sau đây:
ĐVT: triệu USD
Nhóm sản
phẩm
2016 2017 2018 2019 2020 2021 +/-
Đóng gói sp 12.466,96 12.090,74 11.428,00 10.704,99 9.927,65 8.914,10 -6,5%
Dịch vụ 5.650,68 5.673,97 5.919.53 5.764,00 5.751,76 5.730,92 0,3%
Nền dữ liệu 2.732,35 2.568,00 2.380,54 2.096,33 1.666,93 1.217,87 -14,9%
Tổng cộng 20.849,99 20.332,71 19.528,07 18.565,32 17.346,34 15.862,89 -5,3%
Trung Quốc có dân số đông nhất do đó số lượng người theo học tính tính theo
số lượng là đông nhất thế giới, có tới 520.000 trường cấp 1 – 2 – 3 và số lượng sinh
viên tới 230 triệu người, 14 triệu giáo viên, số lượng sinh viên theo học online có thể
nâng dần lên 15% đến năm 2021 nhưng các suy đoán tăng trưởng âm cho thấy tổng
doanh thu ảnh hưởng không nhỏ đến bảng xếp hạng toàn cầu là Trung Quốc, theo đó
phân theo nhóm dịch vụ cũng có.
ĐVT: triệu USD
Nhóm
sản phẩm
2016 2017 2018 2019 2020 2021 +/-
Đóng gói sp 4.105,12 3.820,17 3.449,37 3.066,12 2.711,59 2.502,56 - 9,4%
Dịch vụ 315,78 289,88 364,09 322,30 297,16 259,41 - 3,9%
Nền dữ liệu 842,08 821,33 776,00 963,91 625,44 553,87 - 8,0%
Tổng cộng 5.262,98 4.931,38 4.589,46 4.082,33 3.634,19 3.315,84 - 8,8%
Các quốc gia có tốc độ phát triển đào tạo tự thân (Self-Paced E-Learning)
mạnh mẽ như Slovakia, Myanmar, Mông Cổ, Lào, Campuchia, Ethiopia, Senegan
đều xây dựng hệ thống tự phát triển với mức độ tăng trưởng khá nhanh. Các quốc gia
phát triển đào tạo theo hướng tự chủ thiết chế thường tự xây dựng hệ thống cho riêng
mình bao gồm cả nguồn học liệu, hệ thống mạng, hệ thống kết nối, khai thác nguồn
học viên trong nước và đây chính là các thị trường được đánh giá là tiềm năng
88
nhất cho các nhà đầu tư nội trong
những năm tới. Ví dụ Chính phủ
Slovakia đã đầu tư xây dựng nền tảng
hệ thống Edunet kết nối toàn bộ
mạng lưới các trường trong hệ thống
giáo dục đào tạo, số hóa 80% tài liệu
đào tạo trong các trường, 20% còn lại
là phát triển nội dung từ các tài liệu
được số hóa. Quốc gia này cũng có
số lượng ứng dụng các ngành học
ICT cao nhất tại châu Âu. Kể cả các
nhà xuất bản lớn vẫn hoạt động tại đây nhưng tuân thủ theo quy định về giáo trình
điện tử của Slovakia.
Một quốc gia khác như Lithuana đứng cuối trong bảng danh sách trên nhưng
đạt doanh số 18,1 triệu USD năm 2016 và ước đạt 33,8 triệu USD vào năm 2021, kết
quả đạt ngoài sự mong đợi đó là 90% người dân nói được 2 thứ tiếng, trong đó hơn
50% trong số đó học từ môi trường online, kết nối mạng đào tạo 1.300 trường trong
cả nước, điểm khá đặc biệt là thị trường đào tạo văn học (Literature) online chiếm tới
60% mức độ sử dụng trong các môn học được liệt kê tại đây. Hệ thống giáo dục từ xa
quốc gia này cũng áp dụng hoàn toàn E-Learning.
Khá nhiều các quốc gia đang phát triển khác trong đó có Việt Nam khi thị
trường E-Learning phát triển chưa sâu rộng vẫn còn cơ hội tiếp tục khai thác và phát
triển thị trường. Các thị trường này chính là xu hướng mới mà các nhà đầu tư sẽ theo
đuổi trong thời gian tới. Khi các quốc gia lớn đã bão hòa thì các giải pháp kêu gọi
đầu tư, hấp dẫn đầu tư trong nước nhằm thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hơn nữa nhóm
ngành dịch vụ phục vụ E-Learning. Đồng thời, đây cũng là lĩnh vực công nghệ cao
phù hợp với các quốc gia, khu vực và địa phương theo xu hướng tăng trưởng xanh.
2. Xu hướng đầu tư vào công nghệ đào tạo
(1) Tập trung phát triển mạnh nội dung, các nội dung đào tạo ngôn ngữ (Anh,
Nhật, Hàn, Trung, Nga, Pháp), văn hóa, kỹ năng sống vẫn là những xu thế thu hút
học viên và vẫn chiếm tỷ lệ cao trong đào tạo không chỉ tại Việt Nam mà tại các
quốc gia phát triển khác. Các hiểu biết về văn hóa địa phương, văn hóa vùng miền,
nhân rộng phát triển các chuỗi giá trị văn hóa bản địa cũng là xu hướng được quan
tâm trong những năm tiếp theo.
89
Các khóa học ngày càng xây dựng theo hướng tương tác cao với học viên, theo
đó rẩt cần theo đuổi các nội dung tương tác cao như tài liệu trích dẫn, tài liệu audio,
tài liệu video, các tài liệu tự đánh giá, tự tương tác, các nguồn tài liệu càng đa dạng
phong phú càng hấp dẫn học viên tìm tòi khám phá. Chính việc biên tập tài liệu thay
vì chỉ là bản scan lại các tài liệu sách giáo khoa đã biên soạn thì cần có sự tương tác
tỷ mỉ với các đối tượng trên trang tài liệu.
Hiện nay đã có khá nhiều các tài liệu giảng dạy hiện đại cho phép người dùng
tự cài đặt trực tuyến để tải dần các dữ liệu cần thiết về máy tính hoặc truy cập các
kho dữ liệu xem trực tuyến. Một số bài giảng có thể xem trực tiếp hoặc trao đổi với
các học viên, giảng viên khác. Các bài giảng trực tuyến có nhiều cách tham khảo học
liệu khuyến khích học viên tích cực hơn và sáng tạo hơn trong cách học, cách tiếp
cận tri thức mới. Xu hướng các ấn bản sách điện tử kèm DVD có nội dung tương tác
đã phổ biến từ năm 2010, và tiếp tục trở thành xu hướng xuất bản dữ liệu điện tử
được thế giới chấp nhận.
(2) Phát triển các ứng dụng đào tạo E-Learning trên điện thoại di động, có thể
tích hợp sử dụng với kính VR, 3D mang lại hứng thú thực sự cho học viên. Tham gia
lớp học sống động hơn, tương tác được nhiều hơn. Ví dụ các khóa học về máy móc,
thết kế thiết bị có thể sử dụng Smart Helmet, theo đó, nhìn rõ được các góc cạnh của
cấu kiện linh kiện máy móc, vật kiến trúc. Hay các khóa học về tự nhiên, khoa học
có nhiều video 3D tạo tính tương tác và hấp dẫn hơn cho học viên. Học viên hoàn
toàn có được cảm quan và cảm xúc rõ rệt khi sử dụng kính VR hoặc mũ “thông
minh” có thể tham gia vào nhiều chiều không gian dữ liệu. Việc học lúc này như một
trò chơi cung cấp kiến thức, những bài thực hành cung cấp kiến thức và xử lý tình
huống dựa trên “túi” kiến thức đã biết.
Điện thoại di động và máy tính bảng thực sự trở thành sản phẩm gần gũi với
bất kỳ đứa trẻ nào trưởng thành tại các quốc gia phát triển. Các nước phát triển đang
dần cải thiện tương tác với thiết bị điện tử. Trẻ em ngày càng có nhu cầu sử dụng
máy tính bảng là thiết bị chính phục vụ học tập. Các bài học ngoại ngữ có thể tương
tác khá phổ biến và người tiêu dùng ngày càng có nhu cầu sử dụng sản phẩm đẹp
hơn, sinh động hơn. Điều này cũng cần các nhà đầu tư tìm kiếm tính sáng tạo và đổi
mới trong suốt chuỗi chu kỳ phát triển.
(3) Xu thế sử dụng mã nguồn mở phát triển các tài liệu, ứng dụng có tính tương
tác cao hơn và được ưu tiên sử dụng nhiều hơn các sản phẩm có tính thương mại.
Các dự án sử dụng mã nguồn mở cần được sự đầu tư hỗ trợ từ Chính phủ và các nhà
90
đầu tư lớn với mong muốn phát triển kiến thức phổ thông. Các quốc gia đều có sự hỗ
trợ cấp chính phủ cho các dự án E-Learning đặc biệt như kho dữ liệu phổ biến kiến
thức phổ thông, kiến thức y tế, mạng lưới giáo viên cùng xây dựng và khai thác
chung bài giảng, mạng lưới trao đổi thông tin khoa học, mạng lưới kiến thức chuyên
ngành ưu tiên các mạng lưới này chính là nền tảng kiến thức thúc đẩy học tập
không chỉ đối với học viên đang học tập mà khuyến khích mỗi người trong xã hội
đều tham gia học tập online. Đó thực sự là “bảo bối” cho quá trình “học tập trọn đời”
Tháng 9/2015 Mỹ đã thông qua chính sách hỗ trợ cho tài liệu điện tử chất
lượng cao được nhà nước mua bản quyền và cung cấp miễn phí cho học viên. Các tài
liệu này đều cần có chất lượng cao và phải là mã nguồn mở. Chính phủ Anh tài trợ
xây dựng hệ thống TES Global có văn phòng đặt tại Mỹ chuyên tìm kiếm và khai
thác các nguồn dữ liệu số miễn phí cung cấp cho các lớp học điện tử hỗ trợ giao tiếp
cho cả giảng viên online và học viên online đăng ký dựa trên số nhận diện, đến tháng
6/2016 đạt 7,3 triệu người dùng. Trung Quốc đã xây dựng liên kết: Đội ngũ hơn 14
triệu giảng viên, kho thư viện số quốc gia, kho đề thi thử quốc gia đều có mức độ
truy cập có phí, phí trả tập thể, miễn phí với đủ các ngôn ngữ địa phương cho cùng
một loại tài liệu. Các tài liệu được cung cấp với giá chỉ 1 tệ - 20 tệ tùy loại và thanh
toán ngay sau một lần nhập mật khẩu
(4) Cần thiết xây dựng kho dữ liệu về các bài thi thử điện tử cho các chuyên
ngành từ cấp tiểu học đến đại học. Các bài thi thử này là những kiến thức chuẩn mực
buộc phải biết đối với môn học đó. Học viên có thể “học gạo”, “học chay” để biết đủ
kiến thức căn bản của môn học đó thi thử online để tự tin thi thật. Như vậy nhanh
chóng cân bằng được kiến thức vùng, miền. Ở một số cấp học cho phép học viên lựa
chọn thi bằng các ngôn ngữ khác, thi bằng các cấp độ từ khó đến dễ. Việc xây dựng
được kho dữ liệu này cần đầu tư đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học trong mạng
lưới giáo dục vô cùng quan trọng và cần thiết để chính thức số hóa ngành giáo dục.
Các khóa học liên quan đến đào tạo ngôn ngữ địa phương, ngôn ngữ các dân
tộc thiểu số, ngôn ngữ tiếng Việt, lịch sử - văn hóa địa phương, nếp sống và kỹ năng
sống, khoa học công nghệ, sinh học, nông nghiệp trồng trọt, giao thông, kinh
doanh nên được hỗ trợ bởi một cơ quan có thẩm quyền cả vốn và chất lượng. Bảo
đảm các mức độ được tăng dần. Đây cũng là một kênh quan trọng phát triển văn hóa,
tăng thêm tri thức hiểu biết trên mọi phương diện.
91
(5) Tập trung sâu vào chất lượng dịch vụ và cải thiện nâng cao chất lượng dịch
vụ thanh toán. Hệ thống thanh toán tiên tiến đều là “một quẹt”, “một chạm”, “một
ngón tay” và thanh toán chỉ trong chớp mắt. Như vậy khiến các khóa học được chấp
nhận mua và thanh toán nhanh hơn, tiện hơn, người học không thấy phiền hà khi phải
làm thêm “công đoạn” thanh toán tiền. Chỉ thanh toán nhanh, người học nhiều mới
có được những khóa học giá 1USD.
Tại Việt Nam hiện ước khoảng 3000 giáo viên tham gia thường xuyên giảng
dạy online qua các kênh đào tạo. Con số này thực sự chưa để lại ấn tượng nhiều khi
cách xây dựng nội dung, cách trình bày nội dung còn rất nhiều hạn chế. Tính tương
tác cao trong các tài liệu, trong bài giảng chưa có, video thực tế, 3D lại càng chưa thể
có được đội ngũ nhân lực chưa phân đoạn thành các nhiệm vụ chuyên nghiệp dẫn
đến tính chuyên nghiệp chưa cao. Nguồn kiến thức tham khảo bằng tiếng Việt rất
hữu hạn, bằng các tiếng khác và giảng bằng tiếng khác lại càng khó hơn. Nhiều giảng
viên còn chưa tin tưởng vào hệ thống kiểm đếm học viên và thanh toán cũng cản trở
họ đến với môi trường rộng lớn. Rất mong mọi tri thức đều mở lòng bởi kiến thức có
thể cho đi và chia sẻ với nhiều người cũng là cách bạn nhận được nhiều tri thức nhất.
Chính phủ Mỹ hỗ trợ cho chương trình “Share My Lesson” cho tất cả đội ngũ
giảng viên tham gia và chia sẻ xây dựng tài liệu chung, chỉ sau 18 tháng có hơn
900.000 giảng viên đăng ký tham gia là thành viên chính thức, hơn 3 triệu học viên
cấp 1, 2, 3 đăng ký theo dõi chia sẻ dữ liệu. Mức độ chia sẻ dữ liệu cũng chia thành
mức có phí, phí nhóm, phí đối tượng (một số đối tượng là Giáo sư, Tiến sĩ, nghiên
cứu viên) được miễn phí cung cấp số liệu và bài giảng. Các học viên có thể xem và
đánh giá trình độ giảng viên công khai.
3. Hướng tới kêu gọi đầu tư vào đào tạo E-Learning
(1) Cần một hệ thống chiến lược cấp quốc gia và chính sách đầy đủ từ cấp quốc
gia. Các mô hình quốc gia phát triển đã làm đều cần một lượng đầu tư ban đầu không
nhỏ, nhưng bù lại phổ biến kiến thức nhanh và rộng khắp. Các chuyên gia chuyên
ngành hoàn toàn là nơi tham khảo tốt để xây dựng các chiến lược và chính sách cụ
thể này. Đòn bẩy và sức mạnh đều nằm ở các chính sách có khuyến khích đến đâu.
Từ đăng ký kinh doanh, thuế doanh nghiệp, thuế nhập khẩu và xuất khẩu phần mềm -
ứng dụng, thuế thu nhập từ đào tạo E-Learning, hỗ trợ đào tạo, đăng ký bản quyền,
phát triển sản phẩm, bảo vệ bản quyền tác giả, điều kiện thanh toán đều rất cần
thống nhất và cụ thể của các cơ quan quản lý, tránh tình trạng cho rằng cái đó chưa
có cơ chế và khi phát sinh hay rủi ro xảy ra doanh nghiệp kinh doanh hoàn toàn
92
gánh chịu. Các cơ chế này cần ổn định và bền vững, tránh tình trạng mỗi năm một
lần điều chỉnh. Điều này thực sự không hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước cũng như
nước ngoài.
Các chính sách đổi hàng, trả hàng, đổi hàng, đánh giá chất lượng khóa học
cũng cần cơ chế kiểm tra giám sát chặt chẽ theo một quy trình kiểm định rõ ràng,
thanh toán cần nhanh chóng, thuận tiện để có thể tăng tính tương tác, tạo nên các
giao dịch an toàn thay vì các giao dịch tự phát.
Một số quốc gia cho rằng việc mở rộng đào tạo online, hỗ trợ chính sách tốt sẽ
giảm sinh viên đến các trường học, không được học các giáo viên chính thức, doanh
thu tái đầu tư lại dồn về cho các doanh nghiệp đầu tư trường đại học. Nhà nước đã
đầu tư nhiều tiền vào trường đại học nhưng có thể không tạo nên doanh thu nếu nâng
cao chất lượng của E-Learning. Đây phải chăng chính là điểm khiến nhiều quốc gia
chậm tiến trong lĩnh vực này!? Liệu chúng ta có nên đi theo lối mòn của nhận định
chủ quan đó? Đặc biệt các quốc gia đang phát triển nhu cầu về nguồn vốn rất lớn để
phát triển cơ sở hạ tầng, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và các sản phẩm công nghệ
mang tính dẫn dắt thị trường sẽ là cơ hội tốt để phát triển hệ thống cơ sở dư liệu tri
thức bách khoa cấp quốc gia, một kênh cung cấp tri thức xã hội hiệu quả tiết kiệm,
nhằm hướng tới xã hội học tập văn minh, cộng đồng học tập để phát triển [3].
(2) Điều chỉnh một số hệ thống giáo dục tăng cường hoạt động đào tạo online
như hệ thống đào tạo từ xa (Distance Learning), hệ thống giáo dục thường xuyên, xây
dựng mạng lưới liên kết chung số liệu đồng bộ, giáo viên, nguồn dữ liệu tham khảo
đều cần có sự hỗ trợ nhất định cả về mặt chính sách, cả định hướng hoàn chỉnh. Các
mạng lưới này để tìm kiếm chuyên gia, nâng cấp trình độ chuyên gia, giảng viên tham
gia tư vấn và cùng thực hiện thống nhất, đồng bộ hóa, hỗ trợ xây dựng dữ liệu bài
giảng, bài kiểm tra, bài thi ghi nhận quá trình học tập phấn đấu của học viên, đánh
giá chất lượng học viên thông qua các bài test. Như vậy vừa giảm chi phí đầu tư, vừa
thống nhất được lượng kiến thức theo các cấp độ phù hợp với học viên, vừa cho
người học có thể tham khảo các nguồn tài liệu chính xác, vừa hỗ trợ số liệu và đường
truyền cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đã kinh doanh lâu năm, và
cũng là cách hấp dẫn đầu tư nước ngoài tham gia cùng hệ thống.
(3) Nâng dần các điều kiện bắt buộc đối với các trường cấp 1, 2, 3 và đại học
về nguồn tài liệu điện tử, sử dụng nguồn tài liệu chung cấp quốc gia và nguồn tài liệu
riêng trong kho thư viện điện tử nhà trường. Nếu có kho dữ liệu quốc gia chúng ta
giảm chi phí đầu tư các trường xây dựng các hệ thống lớn. Các trường chỉ cần hệ
93
thống nhỏ lưu trữ số lượng dữ liệu hạn chế nhưng có thể tham gia vào cổng lớn cổng
tri thức quốc gia, đó thực sự là các liên kế