Ý thức nữ quyền trong Hồng lâu mộng

1. Dẫn nhập Một câu chuyện thần thoại Hy Lạp đã kể rằng, Thượng đế đã lấy vẻ đầy đặn của mặt trăng, đường uốn cong của loài dây leo, dáng run rẩy của các loài cỏ hoa đem mọi thứ ấy hỗn hợp lại, nặn thành người phụ nữ. Quả thật, phụ nữ như là linh hồn của cuộc sống muôn loài. Phụ nữ chiếm một nửa thế giới, có lẽ vì thế, mà văn học - một trong những tấm gương trung thành, phản chiếu địa hạt của cuộc sống, đã thể hiện về người phụ nữ một cách khá đầy đủ và tinh tế. Một trong những tác phẩm đã làm được điều ấy, chính là Hồng lâu mộng . Với tác phẩm này, Tào Tuyết Cần đã thể hiện một cách đầy mới mẻ về ý thức Nữ quyền từ “những chiếc thoa vàng” trong Đại Quan viên nói riêng, và nhân loại nói chung. Dựa vào nền tảng từ những công trình nghiên cứu về con người, dấu ấn Nữ quyền trong văn học nói chung và trong Hồng lâu mộng nói riêng, người viết xin mạn phép trình bày Ý thức Nữ quyền trong Hồng lâu mộng ở bài viết của mình. Nghiên cứu về những vấn đề “Nữ quyền” hay tiểu thuyết Hồng lâu mộng không phải là một vấn đề mới, nhưng việc tìm hiểu tác phẩm này qua những dấu hiệu ý thức Nữ quyền mà Tào Tuyết Cần đã xây dựng, ở Việt Nam là một vấn đề chưa được khám phá toàn diện. Vì vậy, mà người viết cảm thấy việc tìm hiểu về Ý thức Nữ quyền trong Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần cũng khá quan trọng và thú vị.

pdf14 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 432 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ý thức nữ quyền trong Hồng lâu mộng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 118 Ý THỨC NỮ QUYỀN TRONG HỒNG LÂU MỘNG Đặng Ngọc Ngận (Sinh viên năm 4, Khoa Ngữ văn) GVHD: TS Phan Thu Vân 1. Dẫn nhập Một câu chuyện thần thoại Hy Lạp đã kể rằng, Thượng đế đã lấy vẻ đầy đặn của mặt trăng, đường uốn cong của loài dây leo, dáng run rẩy của các loài cỏ hoađem mọi thứ ấy hỗn hợp lại, nặn thành người phụ nữ. Quả thật, phụ nữ như là linh hồn của cuộc sống muôn loài... Phụ nữ chiếm một nửa thế giới, có lẽ vì thế, mà văn học - một trong những tấm gương trung thành, phản chiếu địa hạt của cuộc sống, đã thể hiện về người phụ nữ một cách khá đầy đủ và tinh tế. Một trong những tác phẩm đã làm được điều ấy, chính là Hồng lâu mộng . Với tác phẩm này, Tào Tuyết Cần đã thể hiện một cách đầy mới mẻ về ý thức Nữ quyền từ “những chiếc thoa vàng” trong Đại Quan viên nói riêng, và nhân loại nói chung. Dựa vào nền tảng từ những công trình nghiên cứu về con người, dấu ấn Nữ quyền trong văn học nói chung và trong Hồng lâu mộng nói riêng, người viết xin mạn phép trình bày Ý thức Nữ quyền trong Hồng lâu mộng ở bài viết của mình. Nghiên cứu về những vấn đề “Nữ quyền” hay tiểu thuyết Hồng lâu mộng không phải là một vấn đề mới, nhưng việc tìm hiểu tác phẩm này qua những dấu hiệu ý thức Nữ quyền mà Tào Tuyết Cần đã xây dựng, ở Việt Nam là một vấn đề chưa được khám phá toàn diện. Vì vậy, mà người viết cảm thấy việc tìm hiểu về Ý thức Nữ quyền trong Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần cũng khá quan trọng và thú vị. 2. Dấu hiệu “Nữ quyền” được bắt đầu từ tư tưởng trong “Giấc mộng lầu hồng” 2.1. Đôi nét về vấn đề Nữ quyền 2.1.1. Vấn đề Nữ quyền, một hiện tượng văn hoá hiện đại Một cách hiểu thông dụng nhất cho khái niệm Nữ quyền là: Quyền bình đẳng của phụ nữ trên mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội và giáo dục. Khái niệm Nữ quyền nếu hiểu ở cấp độ rộng là quyền lợi của người phụ nữ đặt trong thế tương quan với quyền lợi của nam giới để đạt tới cái gọi là nam nữ bình quyền. Ở cấp độ hẹp thì Nữ quyền có mối liên quan với các khái niệm như giới tính, phái tính trong văn học. Nếu “giới tính”; “phái tính” là những công cụ để khu biệt đặc tính giữa hai phái (nam; nữ) thì khái niệm Nữ quyền không dừng lại ở đó mà mục đích của nó hướng tới là sự bình quyền của nam; nữ, đồng thời tạo ra hệ quy chuẩn riêng của nữ giới [8, tr. 30]. Vấn đề Nữ quyền chính là một hiện tượng văn hóa hiện đại, và nó phát triển một cách mới mẻ trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Rõ ràng, khi đã thoát thai từ một thời gian dài hàng thế kỷ, vấn đề Nữ quyền mang một sứ mệnh cao cả là lên tiếng ý thức về hạnh phúc của người phụ nữ. Chúng phát triển một cách nhanh chóng và mạnh mẽ. 2.1.2. Nữ quyền – Ý thức về hạnh phúc của người phụ nữ Năm học 2012 - 2013 119 Với mục tiêu mang lại một quan niệm mới về người phụ nữ, xuất phát từ các mẫu quy ước văn hóa – xã hội cũ được thiết lập trong quá khứ, quy ước mọi quyền hạn trong xã hội đều được tập trung vào nam giới, chủ nghĩa Nữ quyền muốn đánh giá đúng vai trò và vị trí của phụ nữ qua sự nỗ lực tạo ra một điểm nhìn mới về thế giới của riêng họ. Vấn đề Nữ quyền đã phát triển thành nhiều nhánh khác nhau, ở mỗi nhánh người ta lại đưa ra cách khai thác, cách tiếp cận khác nhau mà theo sự khảo sát và tìm hiểu của người viết thì cụ thể gồm ít nhất là những nhánh nhỏ về thuyết Nữ quyền như: Thuyết Nữ quyền Tự do (Liberal feminism); Thuyết Nữ quyền Xã hội chủ nghĩa (Socialist feminism); Thuyết Nữ quyền cấp tiến (Radical feminism); Thuyết Nữ quyền phân tâm học (Psychoanalytic feminism); Thuyết Nữ quyền hiện sinh (Existentialist feminism); Thuyết Nữ quyền hậu hiện đại (Post Modern feminism); ..v.v.. Sự ra đời của cuốn sách “A vindication of the Right of Wormen – Sự xác minh quyền phụ nữ” của Mary Wolfstronecraft đã lên tiếng yêu cầu phải thừa nhận quyền bình đẳng của phụ nữ đương thời. Đây được xem là cột mốc quan trọng trong phong trào chống lại sự bất bình đẳng giới, và cũng là tác phẩm đã lên tiếng cho ý thức về hạnh phúc của người phụ nữ. Từ cuộc sống hiện thực, Lev Tolstoy đã lên án những bất công mà phụ nữ phải gánh chịu, kể cả về kinh tế lẫn đời sống tinh thần. Ông đã cất lên ý kiến của mình, rằng“Vấn đề quyền phụ nữ không phải ở chỗ phụ nữ có thể hay không thể bầu cử và làm quan tòa, làm những chuyện đó chẳng cần đến quyền gì cả.Vấn đề là ở chỗ có quyền để được bình đẳng trong quan hệ giới tính với đàn ông, để có quyền sử dụng đàn ông hay loại bỏ anh ta tùy theo ý mình, được theo ý mình lựa chọn đàn ông chứ không phải là kẻ bị lựa chọn”1. Như vậy, vấn đề Nữ quyền khi đi vào nhiều lĩnh vực khác nhau đều có chung một đặc điểm là “vì quyền phụ nữ”, đặc biệt là lĩnh vực văn học nghệ thuật. 2.2. Nữ quyền trong Hồng lâu mộng - một tư tưởng mới 2.2.1. Tư tưởng từ huyền thoại đến hiện thực của thời đại 2.2.1.1. Âm hưởng Nữ quyền được bắt đầu từ bức tranh huyền thoại Hình tượng Nữ Oa2 được người Trung Quốc tôn là vị thần “Mẫu”, vị thần tiên sáng tạo ra muôn loài, luôn theo dõi và nâng đỡ con người. Truyền thuyết Nữ Oa đội đá vá trời giúp cho vạn vật sinh tồn và nảy nở theo vòng tạo hóa đã được lưu truyền khắp nhân gian và ai cũng nhớ đến ơn bà Nữ Oa trong tâm thức của người Trung Quốc là có thật, hình ảnh ấy thiêng liêng và tồn tại trong tâm thức của họ như mẹ Âu Cơ trong lòng dân Việt. Nếu như dân tộc Việt Nam được mẹ Âu Cơ sinh ra từ bọc thơm trăm trứng và nuôi sống dưới biển, trên non, thì Nữ Oa đã “nặn đất vàng thành người” [3, 1 Lev Tolstoy và vấn đề quyền phụ nữ (2011), Trần Thị Phương Phương, Khoahoc-ngonngu.edu.vn Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 120 tr. 9], đã “giết rồng đen cứu vùng Kí Châu, lấy tro cây lau đắp bờ ngăn nước lũ” để “thú giữ bị giết sạch, nhân dân yên ổn làm ăn” [3, tr. 9]. Như vậy, ta có thể chấp nhận với nhau rằng, dấu ấn Nữ quyền được thể hiện trong Hồng lâu mộng ít nhiều có nguồn gốc từ huyền thoại. Thật vậy, “huyền thoại là một loại truyện kể mang tính truyền thuyết kể về những chiến công của người cổ xưa nhằm giải thích hiện tượng tự nhiên và xã hội” [2, tr. 38]. Điều đó cho ta thấy, Tào Tuyết Cần đã mượn huyền thoại Nữ Oa để dẫn dắt câu chuyện, và đã được chính tác giả thừa nhận ngay ở phần đầu tác phẩm “Người làm sách xin nói: trải qua quãng đời mộng ảo, nên có ý giấu những việc thực, mượn chuyện “hòn đá thiêng” mà viết ra bộ Thạch đầu kí này” [1, T.1, tr. 17]. Yếu tố huyền ảo được Tào Tuyết Cần lựa chọn chính là mốc khởi đầu từ dấu tích còn đọng lại trong huyền thoại, nó được bắt nguồn từ cuộc sống đa dạng đầy phong phú với những chất liệu tuyệt vời. Ngoài ra, nhà văn đã xây dựng cho nhân vật của mình đi vào Thái hư cảnh ảo. Ở đó, người phụ nữ sống cùng thiên nhiên, dù có phép tắc, lễ nghi, nhưng cũng không có điều gì trói buộc. An nhiên, tự tại là đặc điểm nổi bật của các tiên nữ nơi Thái hư cảnh ảo. Bằng sức tưởng tượng phi thường, tác giả đã tạo ra một cảnh giới tuyệt vời hơn cả vườn Đại Quan, khác xa với hiện thực trần trụi của xã hội. Phác họa một chốn bồng lai tiên cảnh cho nữ giới, cho những con người có tâm hồn thanh cao, có lối sống tinh tế, có khí chất thoát tục như Uyên Ương, Tình Văn, ... Qua đó thể hiện một sự trân trọng và khẳng định nữ giới xứng đáng được hưởng cuộc sống như vậy. Rõ ràng, mỗi tác phẩm văn học nếu không được bắt nguồn từ cuộc sống thì cũng chỉ tồn tại như những phế vật không có tâm hồn. Đồng thời mỗi nhà văn chân chính lại phải là những người lao động miệt mài trên cánh đồng đầy chất liệu tươi nguyên ấy. Mỗi người có một cách khám phá, tìm kiếm và xây dựng cũng như đúc nặn để có một sản phẩm của riêng mình - những sản phẩm được bắt đầu từ cuộc sống khác nhau. Âm hưởng Nữ quyền trong Hồng lâu mộng mà Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc đã viết nên chính là một sản phẩm như thế - “hiện thực đến tươi nguyên”. 2.2.1.2. Âm hưởng Nữ quyền trong hiện thực của thời đại Trong xã hội phong kiến, phụ nữ là người bị áp bức nặng nề nhất. Chế độ phong kiến càng hoàn chỉnh và phát triển bao nhiêu thì người phụ nữ càng bị áp bức nặng nề bấy nhiêu. Nhìn rõ những điều ấy trong thời đại của mình đang sống, Tào Tuyết Cần đã xây dựng nên một Bảo Ngọc trân trọng và sẻ chia những nỗi đau của phụ nữ. Nếu hình ảnh người phụ nữ trong Chuyện làng nho của Ngô Kính Tử, có sự nguyền rủa của Chu Nguyên Chương đối với phụ nữ bằng lời lẽ hung hăng “Thái tổ Cao hoàng đế chúng ta nói: nếu ta không phải do người đàn bà đẻ ra, thì ta đã giết tất cả đàn bà trong thiên hạ rồi. Làm gì có người đàn bà tốt, tính tình của tôi không chịu họ được. Họ ở cách xa ba gian phòng tôi đã ngửi thấy mùi hôi thối của họ rồi” [6, T.2, tr. 82] thì Bảo Ngọc lại sẻ chia gánh nặng tinh thần với mọi nỗi đau khổ dằn vặt họ, chàng nâng niu, chiều chuộng con gái; vì với chàng thì “Xương thịt của con gái là nước kết thành, xương thịt của con trai là bùn kết thànhnhìn thấy con gái thì người nhẹ nhàng, khoan khoái, Năm học 2012 - 2013 121 trông thấy con trai thì như bị phải hơi dơ bẩn vậy” [1, T.1, tr. 46]. Âm hưởng Nữ quyền trong thời đại mà Tào Tuyết Cần sống được ông đưa vào từng trang viết một cách sinh động. Nhà văn thấy hiện thực của thời đại là một thái độ chấp nhận của xã hội, họ mặc nhiên thừa nhận với nhau rằng “Phải đấy, đàn bà khôn khéo không có gạo cũng chẳng nấu được thành cháo” [1, T.2, tr. 628]. Thật vậy, âm hưởng Nữ quyền trong hiện thực của thời đại mà Tào Tuyết Cần đã phác họa trong Hồng lâu mộng là những cuộc đời đầy cay đắng của thân phận người phụ nữ. Nhìn thấy những nỗi đau đó, ông viết cho họ bằng cả trái tim yêu thương, trân trọng và khả kính đến vô cùng. Có lẽ chính vì “những điều trông thấy” ấy mà tác giả Hồng lâu mộng đã viết rằng “Nay tôi đã sống cuộc đời gió bụi, không làm nên trò trống gì. Chợt nghĩ đến những người con gái ngày trước cùng sống với tôi, so sánh kỹ lưỡng, thấy sự hiểu biết và việc làm của họ đều hơn tôi. Tôi đường đường là bậc tu mi, lại chịu kém bạn quần thoa, thực rất đáng thẹn nhưng trong khuê các còn biết bao người tài giỏi, tôi không thể nhất thiết mượn cớ ngu dại muốn che giấu lỗi mình, để cho họ bị mai một dù học ít, hạ bút không viết nên văn, tôi cũng chẳng ngại gì mượn lời nôm na thêu dệt” [1, T.1, tr. 18] nên “Giấc mộng lầu hồng”. 2.2.2. Nữ quyền – sự cách tân trong “Giấc mộng lầu hồng” qua các nhân vật nữ Hòa mình vào dòng chảy chung của văn học trung đại Trung Quốc, tiểu thuyết Minh_Thanh cũng góp phần vào đề tài người phụ nữ với những đóng góp rất lớn. Chắc hẳn ai đã từng theo dõi nền Văn học Trung Quốc, có lẽ sẽ đều biết đến một Tam Quốc Chí của La Quán Trung, một Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân hay một Thủy hử của Thi Nại Am với khá nhiều những nhân vật nữ. Trong văn học giai đoạn ấy, người phụ nữ hiện lên với sự phong phú và đa dạng, nhưng rõ ràng cho đến khi Hồng lâu mộng sừng sững bước lên văn đàn văn học, thì hình ảnh người phụ nữ đời thường mới thật sự trở nên mới mẻ hơn bao giờ hết. Họ đã được sắm cho mình một tính cách mà “không thể nào lẫn lộn”, lúc này người ta mới thấy rõ hình ảnh của nữ giới vừa đáng yêu, đáng mến lại vừa nổi loạn, nắm quyền. 2.2.2.1. Người phụ nữ “nổi loạn” trong “Giấc mộng lầu hồng” Chỉ có nổi loạn tôi mới tìm thấy được bản thể của tôi; chỉ có nổi loạn tôi mới tìm thấy được cái nét hùng vĩ của con người. Tôi nổi loạn, vậy tôi hiện hữu3. Thật vậy, sự nổi loạn được xem là hành vi trở về với bản ngã của chính mình. Mang tư tưởng chống đối lại một thế lực nào đó, cụ thể trong Hồng lâu mộng, thế lực ấy chính là tư tưởng mục nát của chế độ phong kiến Trung Quốc đương thời. Tào Tuyết Cần đã để cho nhân vật của mình đến với bản ngã của họ, đặc biệt là những nhân vật nữ. Nếu như Diệu Ngọc – “người dòng dõi nhà quan, khi bé lắm bệnh, làm bao nhiêu hình nhân thế mạng, vẫn không khỏi; phải xuất gia” [1, T.1, tr. 298] để có được “kết quả tốt” về sau, thì nàng Lâm Đại Ngọc – nhân vật được Tuyết Cần chăm 3 Theo thạch Chương -Trình bày và phê bình hai quan niệm nổi loạn của Albert Camus. Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 122 sóc kĩ lưỡng lại không như thế. Ngay thuở nhỏ, có nhà sư chốc đầu bảo Đại Ngọc nên đi tu nhưng Tào Tuyết Cần đã xây dựng một Đại Ngọc “không thỏa hiệp”. Đại Ngọc biết “tiền định” của mình, song nàng vẫn làm trái lại, nàng vẫn đến ở nhà bà ngoại, cứ dấn thân trong cõi đời phàm tục, từ bỏ mọi an nhiên mà số phận an bài. Cũng là đóa phù dung, nhưng nàng Lâm là thủy phù dung,“ sương gió buồn tênh”. Đóa phù dung ở đây, được mệnh danh là thần hoa mùa hạ, cái cốt cách của Đại Ngọc cũng thẳng ngay như thủy phù dung vậy. Khi dạo chơi trong Đại Quan viên, Đại Ngọc tỏ ý yêu cả những lá sen ở mặt hồ: “xưa nay tôi không thích thơ Lí Nghĩa Sơn, chỉ thích có một câu của ông ta là “sen tàn nghe rốn tiếng mưa thu”. Bây giờ các người lại không để lại những lá sen tàn à!” [1, T.2, tr. 704]. Đại Ngọc thích mỗi câu ấy để rồi mệnh bạc lại gieo vào nàng bao uất hận đầy buồn khổ. Lần theo tác phẩm Hồng lâu mộng, ta có thể thấy rằng nếu Bảo Thoa là con đẻ của thời đại, tiếp thu ngoan ngoãn những tư tưởng của chế độ phong kiến, thì Đại Ngọc lại là đứa con phản nghịch của thời đại. Nàng sắc sảo, thông minh, tự do bày tỏ chính kiến của mình và ra mặt sống vì tình yêu, đau khổ vì tình yêu chứ không giống Bảo Thoa, lúc nào cũng tự giấu mình. Nếu Bảo Thoa sống phải e dè, mừng giận khó lộ, thì Đại Ngọc đã mới mẻ hơn. Nàng thật lạ, gặp chuyện gì cũng có thể rơi lệ, mà lại sống ở những nơi dễ tức cảnh sinh tình _rừng trúc “tiêu tương”. Rơi lệ, nhưng không có nghĩa là bi lụy, mà ở đây tiếng khóc của nàng là tiếng khóc của người đa sầu đa cảm. Nghe tuồng hát đầy ai oán _khóc, nhìn cảnh vật thê lương _khóc, “lúc rỗi, ngồi buồn không cau mày cũng thở dài”. Con người ấy với mặc cảm trong kiếp ăn nhờ ở đậu “nói không được thừa nửa lời, đi không được thừa nửa bước” ấy luôn đa sầu đa cảm, nước mắt của nàng như ứng với lời nguyền ngày trước, như dành hết nước mắt của cuộc đời mình mà trả nợ cho hòn đá Thạch Anh, tiếng khóc của nàng khiến cho “chim chóc đương đậu trên cành liễu, khóm hoa gần đấy cũng xào xạc bay xa, không nỡ nghe những tiếng khóc than ai oán”[1, T.1, tr. 456]. Qua đó, ta thấy Tào Tuyết Cần như muốn đánh đổ quan niệm của xã hội cũ, nếu như chế độ xã hội ấy đã khẳng định muốn cho Lâm Đại Ngọc khỏe, điều cần nhất là “từ giờ trở đi, chớ để nó nghe tiếng khóc; ” thì nhà văn lại để cho Đại Ngọc “nhiều khi bỗng đang yên lành, không biết vì sao cũng rơm rớm nước mắt” [1,T.1, tr. 457]. Sự nổi loạn lạ đời ấy, còn được thể hiện qua cách suy nghĩ khác người của Lâm Đại Ngọc, nếu như Bảo Thoa cho rằng “con gái không có tài ấy là đức” đấy! Con gái cần phải lấy trinh tĩnh làm chủ, nữ công cũng chỉ là việc cần thiết thứ hai. Còn như thi từ, chẳng qua là để chơi đùa trong khuê các” [1, T.2, tr. 429] thì Đại Ngọc đã vận dụng hết tài năng để làm nên những bài thơ khiến chị em vườn Đại Quan phải ngợi khen. Ngay cả suy nghĩ “riêng chung” Tào Tuyết Cần cũng để nàng “bộc bạch” cùng Bảo Ngọc qua hình ảnh cánh “cửa” đầy ma mị. Nếu Bảo Ngọc không sang thăm chị Bảo Thoa là vì “cái cửa nhỏ kia” không “qua lại được” muốn qua bên ấy phải đi vòng ra bên ngoài, cho nên không tiện” [1, T.3, tr. 182] thì Đại Ngọc lại “tỏ hết nỗi lòng” của bản thân mình với chàng Bảo, bất giác ta thấy đâu đó câu nói “nam nữ thụ thụ bất tương thân” mà xã hội phong kiến vẫn xem là câu cửa miệng khi nói về chuyện trai, gái đã bị đẩy xuống tận cùng qua cách nghĩ, cách cảm và câu nói của cô Lâm Năm học 2012 - 2013 123 “Hiện nay cửa sổ của chúng ta đều che bằng thứ sa màu ráng trời,có hại gì? Cửa sổ của em tức là cửa sổ của anh, việc gì phải phân biệt như thế? Chỉ tổ làm cho thêm xa lạ mà thôi” [1, T.2, tr. 712]. Là một nhân vật nữ điển hình tuân thủ nghiêm ngặt “giáo điều phong kiến”, Tiết Bảo Thoa đã can ngăn khi Hương Lăng muốn học làm thơ. Dù vậy, nàng Hương Lăng vẫn được sự bảo ban tận tình của Sử Tương Vân “suốt ngày say đắm” để cuối cùng cũng viết nên những vần thơ hay đến lạ. Theo cách nói của Đặng Tiến, thì người đàn bà trong thơ là một huyền thoại; thơ trong người đàn bà là một huyền thoại khác; thơ của người đàn bà là huyền thoại của huyền thoại, là thơ của thơ [7, tr. 78], vậy người đàn bà dạy người đàn bà làm thơ có nên chăng được xem là một sự đổi mới và nổi loạn mạnh mẽ, đâu đó hình ảnh “lại đây chị dạy làm thơ” của Hồ Xuân Hương trong văn học Việt Nam khiến người đọc phải nghiêng mình. Ngoài việc “dạy thơ” cho người khác, Sử Tương Vân còn ăn mặc như một đấng nam nhi, trang phục của Sử tiểu thư khiến Đại Ngọc phải cười mà thốt lên “Các chị xem kìa, Tôn Hành Giả đến đây rồi” [1, T.2, tr. 145]; Bảo Thoa lại nói “Còn nhớ kỳ tháng ba, tháng bốn năm ngoái, khi cô ấy ở đây, đã mặc áo, đi cả giày, đeo cả thắt lưng của cậu Bảo. Thoạt nhìn, giống hệt cậu Bảo, chỉ khác hai bên đeo hoa tai thôiSau mọi người không nhịn được cười, cụ cũng cười nói: nó ăn mặc giả trai càng dễ coi hơn” [1, T.1, tr. 542] và các chị em trong Đại Quan viên cũng phải thừa nhận “Cô ấy thích mặc kiểu cậu bé, vì kiểu ấy trông sắc sảo, lanh lợi hơn là kiểu cô bé” [1, T.2, tr. 145]. Không thừa nhận những luật lệ phong kiến, không thừa nhận chế độ nam quyền, Tào Tuyết Cần đã để Phượng Thư lồng lộn lên như con hổ dữ trước cảnh chồng ân ái với chị Hai nhà họ Vưu, rồi đến cái “mây mưa” của Giả Liễn với vợ Bào Nhị,... Mưu mô có, xảo quyệt có,rồi thì sự “nổi loạn” ấy có suy cho cùng cũng chỉ“là giữ nguyên cái thế giằng co ấy giữa tôi và thế giới,muốn chống lại mọi thoả hiệp với phi lý”4, câu nói của Giả Mẫu như một thứ nước cam lồ huyền diệu, làm đổ nát “hũ dấm” của Hy Phượng một cách nhẹ nhàng “Việc có quan hệ gì đâu. Bọn trai trẻ chúng nó, thấy gái khác nào mèo thấy mỡ, giữ làm sao được? Lúc trẻ ai mà chẳng thế?...” [1, T.2, tr. 60]. Qua đó, ta thấy âm hưởng Nữ quyền qua các nhân vật nữ “nổi loạn” của Tào Tuyết Cần là hàng loạt những thái độ và cung bậc khác nhau, có một Đại Ngọc “nổi loạn” từ tư tưởng chống đối lễ giáo, gia nghi đến “rời bỏ định mệnh” chấp nhận “cửa tình”; một Hương Lăng “chăm chỉ học hành”; một Sử Tương Vân như “Tôn Hành Giả” giữa chốn Đại Quan. 2.2.2.2. Người phụ nữ “nắm quyền” trong “Hồng lâu mộng ” Nguyễn Khắc Phi đã nhấn mạnh “Ở Trung Quốckhi được thành vợ thành chồng, người phụ nữ lại càng thấy mình thiệt thòi. Người đàn ông nắm hết quyền hành, người phụ nữ không có địa vị gì trong gia đình cũng như ngoài xã hội ...” [6, T.1, tr. 4 Theo thạch Chương -Trình bày và phê bình hai quan niệm nổi loạn của Albert Camus. Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH 124 28]. Và có lẽ, hình ảnh người phụ nữ nắm quyền mới bắt đầu được bước vào trang văn khi Hồng lâu mộng ra đời qua hình ảnh Phượng Thư - “bậc anh hùng trong đám phấn son”. Dù nàng là người ít học, nhưng lại rất thông minh, lanh lợi. Tào Tuyết Cần đã cho Hy Phượng một sự tự tin và tài quán xuyến, cắt đặt mọi việc trong nhà. Điều này được Giả Trân đã hết lòng ca ngợi “Hồi cô còn bé, từ lời nói tiếng cười đã có tính quyết đoán. Bây giờ đi lấy chồng, cáng đáng mọi việc bên nhà chắc đã thành thạo lắm rồi. Cháu nghĩ mãi mấy hôm nay, ngoài cô em ra không còn ai nữa” [1, T.1, tr. 226]. Với tài năng quán xuyến, ý thức “Nữ quyền” qua nhân vật nữ “nắm quyền” - Phượng Thư của Tào Tuyết Cần đã thật sự thành công từ đám tang của Tần thị đến cuộc hành trình “Thay rường đổi cột”. Trong chuyện cưới xin cho Bảo Ngọc, Phượng Thư cũng là người “định đoạt”: “Theo ý cháu thì việc này chỉ có cách đánh tráo mà thôi. Bây giờ không kể là cậu Bảo hiểu hay không hiểu, mọi người chúng ta cứ rêu rao lên là ông lớn làm chủ, cưới cô Lâm cho chú” [1, T.3, tr. 263]. Ta thấy, với “Cử chỉ khoan thai, nói năng khoát đạt, tỏ vẻ cao quý, rộng rãi nên chẳng coi ai vào đâu, tha hồ phung phí, sai phái, muốn làm gì thì làm” [1, T.1, tr. 239], Tào tiên sinh đã xây dựng nên một Vương Hy Phượng cá tính đầy mới mẻ, thỏa mãn tính hiếu thắng và để lại trong Kim Lăng thập nhị kim thoa một nữ
Tài liệu liên quan