Tây Nguyên có một vị trí đặc biệt quan trọng - là vùng đất cao nguyên nằm ở
trung tâm miền núi Nam Đông Dương, địa thế hiểm yếu, có những hành lang
tự nhiên thông với Nam Lào, Đông bắc Campuchia và duyên hải Trung bộ,
lại có nhiều tiềm lực kinh tế rừng, khoáng sản, du lịch - là vùng kinh tế trọng
điểm của cả nước, đồng thời giữ một vị trí chiến lược đặc biệt, có ưu thế lớn
cả trong tấn công và phòng thủ.
Ngay từ thời Pháp thuộc, với chính sách chia để trị, thực dân Pháp đã dùng
nhiều chiêu bài nhằm khu biệt Tây Nguyên ra khỏi sự gắn kết của Việt Nam.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đế quốc Mỹ vẫn chưa từ bỏ âm mưu thôn
tính Việt Nam, với chiến lược “diễn biến hoà bình”, chúng ra sức chống phá
ta từ nhiều phía, bằng nhiều lực lượng, trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ
năm 1987, thông qua tổ chức “Người Thượng” ở Mỹ do Ksor Kơk cầm đầu,
chúng đã liên tục chỉ đạo bọn Fulrô trong nước ráo riết xây dựng, củng cố tổ
chức, phát triển lực lượng, mở rộng địa bàn và phạm vi ảnh hưởng
12 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 2103 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xử lý tình huống và giải pháp ngăn ngừa điểm nóng chính trị ở Tây Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xử lý tình huống và giải pháp ngăn ngừa
điểm nóng chính trị ở Tây Nguyên
Tây Nguyên có một vị trí đặc biệt quan trọng - là vùng đất cao nguyên nằm ở
trung tâm miền núi Nam Đông Dương, địa thế hiểm yếu, có những hành lang
tự nhiên thông với Nam Lào, Đông bắc Campuchia và duyên hải Trung bộ,
lại có nhiều tiềm lực kinh tế rừng, khoáng sản, du lịch - là vùng kinh tế trọng
điểm của cả nước, đồng thời giữ một vị trí chiến lược đặc biệt, có ưu thế lớn
cả trong tấn công và phòng thủ.
Ngay từ thời Pháp thuộc, với chính sách chia để trị, thực dân Pháp đã dùng
nhiều chiêu bài nhằm khu biệt Tây Nguyên ra khỏi sự gắn kết của Việt Nam.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đế quốc Mỹ vẫn chưa từ bỏ âm mưu thôn
tính Việt Nam, với chiến lược “diễn biến hoà bình”, chúng ra sức chống phá
ta từ nhiều phía, bằng nhiều lực lượng, trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ
năm 1987, thông qua tổ chức “Người Thượng” ở Mỹ do Ksor Kơk cầm đầu,
chúng đã liên tục chỉ đạo bọn Fulrô trong nước ráo riết xây dựng, củng cố tổ
chức, phát triển lực lượng, mở rộng địa bàn và phạm vi ảnh hưởng.
Sau khi đã phát triển lực lượng, hình thành tổ chức, kích động lôi kéo được
nhiều người tham gia, chúng tiến hành nhiều hành động manh động, táo tợn
như: công khai tuyên truyền các luận điệu phản động, phát tán tài liệu “Nhà
nước Đề ga”, kích động đồng bào dân tộc nổi dậy đấu tranh giành quyền độc
lập cho Tây Nguyên; đe doạ khống chế cán bộ cơ sở, thách thức chính quyền
và công an; tổ chức tập luyện ra mắt tổ chức “Đề ga”. Nghiêm trọng nhất là
kích động quần chúng gây biểu tình, bạo loạn chính trị ngày 02/02/2001 và
ngày 10/04/2004. Đáng chú ý là số đối tượng cầm đầu đã lừa dối được một bộ
phận cán bộ cơ sở, che dấu cho chúng hoạt động. Đồng thời, chúng chủ
trương cho một số đối tượng về đầu thú giả để nắm tình hình mọi mặt trong
làng báo cáo ra bên ngoài.
Bên cạnh đó, tình hình trộm cắp mủ cao su ở các vườn cây của các nông
trường, công trường cao su diễn ra khá gay gắt; tình hình tranh chấp khiếu
kiện trong nội bộ nhân dân diễn biến phức tạp; nhất là việc tranh chấp đất đai
giữa nhân dân với nhân dân; giữa nhân dân với cơ quan, nông, lâm trường;
giữa đồng bào dân tộc tại chỗ với dân kinh tế mới, dân di cư tự do... có nhiều
vụ phức tạp, có thể là nguyên cớ trở thành điểm nóng.
Từ thực tế trên, ta có thể nhận định các thế lực thù địch bên ngoài vẫn tiếp tục
duy trì và quyết tâm thực hiện âm mưu gây mất ổn định chính trị ở Tây
Nguyên. Trong bối cảnh mới, chúng sẽ đặc biệt lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo, lợi dụng những sơ hở thiếu sót của ta trong việc thực hiện chủ trương,
chính sách ở các vùng dân tộc nhằm tuyên truyền kích động tư tưởng ly khai
tự trị, tạo dựng lực lượng đối lập có tổ chức theo kiểu “Nhà nước Đề ga”,
“Tin lành Đề ga” để chống phá ta. ở từng thời điểm, hoạt động của số đối
tượng bên trong mạnh hay yếu phụ thuộc vào sự tác động của số đối tượng
Fulrô bên ngoài và công tác đấu tranh giải quyết Fulrô của ta.
Để ngăn chặn điểm nóng chính trị, việc tìm ra nguyên nhân, xác định phân
loại nguyên nhân là hết sức quan trọng. Trên cơ sở đó mới có đối sách thích
hợp. Điểm nóng chính trị diễn ra ở Tây Nguyên bắt nguồn từ những nguyên
nhân sau:
Về khách quan, các thế lực thù địch bên ngoài đã hậu thuẫn cho bọn phản
động người Việt lưu vong và các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện âm
mưu “diễn biến hoà bình” nhằm phá hoại thành quả cách mạng Việt Nam.
Đây là nguyên nhân cơ bản, sâu xa phát sinh điểm nóng chính trị ở Tây
Nguyên; Cơ sở xã hội mà bọn phản động lợi dụng để tập hợp lực lượng, tạo
dựng “ngọn cờ” chống phá cách mạng vẫn còn. Đó là số Fulrô cũ, số nguỵ
quân, nguỵ quyền chưa chịu cải tạo, số đối tượng phản động đội lốt tôn giáo
đang hoạt động trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa được xử lý; Tác
động của cơ chế thị trường gây ra phân hoá giàu - nghèo giữa các vùng và
giữa các tầng lớp dân cư. Trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất còn lạc hậu,
đời sống gặp nhiều khó khăn; tình trạng di cư tự do và sự tranh chấp, mua bán
đất đai trái pháp luật đã tạo kẽ hở cho bọn xấu kích động. Đó là những
nguyên nhân bên trong, trực tiếp tác động đến tình hình kinh tế - xã hội, là
mảnh đất tốt cho kẻ địch lợi dụng.
Về nguyên nhân chủ quan bao trùm có ý nghĩa chi phối là trong một thời gian
khá dài ta đã buông lỏng công tác xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt ở cơ
sở. Nhiều buôn làng còn trắng đảng viên, trắng tổ chức đoàn thể. Đội ngũ cán
bộ ở cơ sở vừa thiếu, vừa yếu, trình độ năng lực còn hạn chế, cốt cán ở làng
rất mỏng. Cán bộ người Kinh đa số không biết tiếng, không hiểu phong tục,
tập quán của đồng bào nên gần dân mà vẫn xa dân.Vì vậy, khi bọn xấu tuyên
truyền, xuyên tạc, kích động thì không có cán bộ, đảng viên trực tiếp giải
thích ngay cho dân hiểu; khi chúng ép buộc, khống chế thì không có cán bộ
bảo vệ dân.
Sau giải phóng, nhất là sau năm 1992, khi chúng ta triệt phá một số ổ nhóm
Fulrô cuối cùng đã xuất hiện tư tưởng bằng lòng với thành tích đạt được, chủ
quan, đơn giản, đánh giá địch không đầy đủ, lơi lỏng, mất cảnh giác trước âm
mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Không quản lý, không
giám sát kỹ các đối tượng phản động nằm rải rác trên địa bàn nên chúng đã có
cơ hội móc nối với nhau xây dựng, phát triển lực lượng. Mặt khác, trong xử
lý ta cũng thiếu kiên quyết, còn nặng về giáo dục, thuyết phục.
Mặt khác trong một thời gian khá dài, ta chưa tập trung đầu tư đúng mức cho
phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là vùng sâu,
vùng căn cứ cách mạng trước đây. Chưa đặt mạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế
với giải quyết các vấn đề xã hội nhất là vấn đề xoá đói giảm nghèo, chăm sóc
sức khoẻ, chăm lo giáo dục, vấn đề đất canh tác, nhà ở, việc làm...; nhiều vấn
đề bức xúc, nổi cộm trong dân chưa giải quyết kịp thời và triệt để. Chế độ
chính sách cho cán bộ xã, thôn quá thấp, công việc lại nhiều, nhìn chung đời
sống cán bộ cơ sở rất khó khăn, phải lo cuộc sống gia đình vì vậy không thể
đảm đương hết được việc làng, việc xã. Một bộ phận cán bộ thoái hoá, biến
chất, nhũng nhiễu gây bất bình trong dân, một bộ phận khác bản lĩnh chính trị
kém, thậm chí còn tiếp tay cho bọn phản động. Phần đông cán bộ cơ sở trình
độ mọi mặt còn rất yêú nên rất thụ động trong giải quyết công việc, khó khăn
trong xử lý các tình huống chính trị.
Từ sự phân tích trên, khả năng điểm nóng tái phát là có thể mà nguyên nhân
khách quan là cơ bản, là sâu xa còn nguyên nhân chủ quan là trực tiếp, làm cơ
sở, không thể xem nhẹ. Vì vậy, để ngăn ngừa khả năng xảy ra điểm nóng
chính trị cần có hệ thống giải pháp đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực, tác động
toàn diện đến mọi ngành, mọi cấp, mọi tầng lớp nhân dân nhằm nâng cao sức
chiến đấu của Đảng, của cả hệ thống chính trị, từ đó hệ thống chính trị đủ sức
tác động giác ngộ, thức tỉnh quần chúng để họ không nghe, không tin theo kẻ
xấu, đồng lòng hợp sức cùng Đảng, cùng chính quyền xây dựng Tây Nguyên
ngày càng giàu mạnh. Chỉ như vậy, Tây Nguyên mới đủ sức đề kháng, miễn
dịch với mọi sự xâm nhập, tác động từ bên ngoài. Để làm tốt được việc đó,
giải pháp để giữ vững ổn định chính trị ở Tây Nguyên cần tập trung vào một
số vấn đề sau:
1. Từng bước nâng cao trình độ dân trí, ý thức và năng lực thực hành
dân chủ cho đồng bào:
Phải làm cho đồng bào có khả năng tự nhận thức được những vấn đề dân tộc,
tôn giáo; kích thích nhu cầu và khả năng tham gia vào công việc chính quyền,
có khả năng bàn bạc, thảo luận những vấn đề liên quan đến lợi ích chính đáng
của chính mình, có khả năng tự bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Cần xây dựng nền tảng văn hoá để đồng bào có khả năng chủ động vươn lên
làm chủ chính mình, khắc phục dần sự khác biệt giữa các tầng lớp dân cư,
giữa các vùng, các khu vực.
Những yêu cầu đó chỉ có thể được thực hiện trên nền tảng của trình độ văn
hoá nhất định. Do đó, đầu tư cho phát triển giáo dục - đào tạo ở miền núi là
một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài của Đảng và Nhà nước. Tuỳ từng địa
phương với những đặc điểm tâm lý, xã hội khác nhau mà có chính sách khác
nhau, đầu tư bằng những hình thức đào tạo khác nhau.
Trước mắt, cùng với việc mở các lớp học bổ túc, lớp học chính quy, các
trường dân tộc nội trú... cần tăng cường đội ngũ cán bộ dân vận để thông qua
công tác dân vận, cán bộ dân vận trực tiếp phổ biến, tuyên truyền, giải thích
nội dung chủ trương, chính sách, luật pháp, về quyền và lợi ích của công
dân... Nói chung, phải thật sự gần dân kịp thời trợ giúp dân những kiến thức
mà dân còn chưa nắm vững để dân vững tin trong mọi suy nghĩ và hành động,
biết và dám tự chịu trách nhiệm với các hành vi của mình.
2. Củng cố và hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở:
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có vai trò quyết định tới việc khắc phục
những yếu tố cực đoan trong thực hiện những yêu cầu dân chủ của công dân,
là điều kiện hết sức quan trọng để đấu tranh chống lại mọi mưu đồ sử dụng
vấn đề dân chủ vì những mục tiêu không lành mạnh, đi ngược lại lợi ích của
đồng bào. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc và có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với Tây Nguyên, khi các thế lực phản động coi đây là địa bàn trọng
điểm và đang từng ngày, từng giờ tìm cách chống phá sự nghiệp cách mạng
mà Đảng đang lãnh đạo nhân dân thực hiện. Muốn vậy, phải tăng cường công
tác xây dựng Đảng, xoá làng trắng đảng viên, phát hiện, bồi dưỡng những
thanh niên ưu tú cho Đảng. Tiếp tục thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng
chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2, khoá VIII).
Cần đặc biệt tăng cường sức mạnh cho Ban Dân vận ở khu vực miền núi vì
đây là cơ quan trực tiếp giúp cấp uỷ giải quyết các vấn đề liên quan đến dân
tộc, tôn giáo phức tạp hiện nay.
Tái lập Ban Nội chính tỉnh để giúp cấp uỷ lãnh đạo, bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, chống bạo loạn, tội phạm, tệ nạn xã hội, truyền đạo trái
pháp luật.
Xây dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở thật sự trong sạch, sáng
suốt, hoạt động có hiệu quả, hiệu lực. Phải nhanh chóng hoàn thiện cơ chế
hoạt động của chính quyền tránh sự tha hoá quyền lực từ cơ sở, phải làm cho
chính quyền luôn là công cụ của dân chứ không phải trở thành đối lập với
dân. Thông qua trưng cầu ý kiến của dân mạnh dạn cân nhắc những cán bộ có
phẩm chất, năng lực, có uy tín với dân; kiên quyết loại bỏ ra khỏi bộ máy, xử
lý kỷ luật thích đáng đối với những cán bộ vi phạm.
Củng cố Ban Dân tộc - Tôn giáo của Hội đồng nhân dân các cấp ở địa bàn
miền núi. ở những địa bàn phức tạp, cần thiết có thể tách Ban Dân tộc - Tôn
giáo thành hai Ban riêng để có điều kiện gần dân, cùng dân giải quyết những
vấn đề dân tộc, tôn giáo từ trong “trứng nước” chứ không phải để đến lúc nảy
sinh tình huống chính trị phức tạp mới lo xử lý.
Nâng cao chất lượng của Mặt trận và các tổ chức quần chúng ở cơ sở, làm
cho tổ chức đó thực sự thu hút được sự tham gia hoạt động tự giác của các
thành viên. Đưa già làng, trưởng bản, người có uy tín tham gia vào những tổ
chức này, nhờ đó, những vấn đề bức xúc của quần chúng được phản ánh và
giải quyết kịp thời, hạn chế những mâu thuẫn, xung đột tiềm ẩn điểm nóng
chính trị - xã hội.
Đặc biệt coi trọng tính chủ động, những sáng kiến, sáng tạo của các tổ chức.
Nhân những mô hình hoạt động điển hình như mô hình “Làng thanh niên” ở
Gia Lai sang những địa phương khác có điều kiện tương tự.
Thiết kế tổ chức bộ máy và nhân sự chủ chốt của Mặt trận và tổ chức quần
chúng làm sao đảm bảo tính độc lập tương đối với chính quyền, đại diện tiếng
nói, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các thành viên,
có điều kiện giám sát và phản biện với cơ quan chính quyền địa phương và cơ
sở.
3. Đầu tư có hiệu quả cho phát triển kinh tế:
Để có sự ổn định chính trị ở Tây Nguyên, việc đảm bảo những nhu cầu của
đời sống kinh tế ngày càng cao cho đồng bào là một giải pháp có ý nghĩa
quyết định, trực tiếp, thiết thực nhất. Do trình độ phát triển kinh tế-xã hội còn
thấp, khu vực này rất cần sự giúp đỡ của Trung ương và sự chi viện của cả
nước tạo điều kiện phát triển kết cấu hạ tầng, tìm kiếm thị trường, chế biến
nông sản, cung cấp thông tin kinh tế-xã hội... Nhà nước cần có cơ chế chính
sách huy động nguồn lực của các địa phương giàu, doanh nghiệp khá giả hỗ
trợ cho các địa phương miền núi Tây Nguyên về nhân lực, vốn đầu tư và kinh
nghiệm quản lý để Tây Nguyên sớm phát huy được tiềm năng kinh tế của
mình.
Xây dựng nông trường, công trường, công ty, xí nghiệp, trang trại... tạo việc
làm, tăng thu nhập cho người lao động. Đặc biệt chú trọng đào tạo và sử dụng
lao động là người dân tộc tại chỗ. Đây là trách nhiệm của các cấp chính
quyền địa phương. Từ việc lựa chọn người đi đào tạo, mở lớp đào tạo, hợp
đồng chặt chẽ với các lâm, nông, công trường để những cơ sở sử dụng lao
động họ không thể lảng tránh hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng ảnh
hưởng đến quyền lợi của người lao động.
Nghiên cứu những cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện địa lý của địa
phương, đồng thời có tầm nhìn chiến lược về tình hình cung - cầu trong nước
và trên thế giới các sản phẩm từ những cây trồng, vật nuôi đó để đồng bào có
điều kiện tăng gia sản xuất, ổn định sản xuất, không phải chạy theo thị trường
như hiện nay. Chấm dứt tình trạng đồng bào vẫn sống nghèo khổ trên chính
mảnh đất giàu tiềm năng kinh tế này. Nhanh chóng xoá đói giảm nghèo nâng
cao đời sống vật chất, đồng thời chú trọng nhu cầu tinh thần của đồng bào,
xây dựng khu vui chơi giải trí, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ cộng đồng để
đồng bào phát huy năng lực sở trường của mình, thu hút đồng bào tham gia
vào những hoạt động lành mạnh, tích cực.
4. Tôn trọng và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của đồng
bào:
Chú trọng xây dựng hương ước, quy ước ở từng thôn, buôn thể hiện được sự
kết hợp đúng đắn, linh hoạt giữa luật tục và pháp luật, thừa nhận một số luật
tục còn có giá trị tích cực, song phải được tính toán kỹ, tránh để tình trạng
luật tục tạo ra những quy định trái với luật pháp.
Phát huy tính tự quản, nhất là quan hệ gia đình, láng giềng; kế tục và phát huy
những truyền thống văn hoá tốt đẹp tạo cơ sở cho việc xây dựng thôn, làng
văn hoá, bài trừ hủ tục, làm cho những hiện tượng tiêu cực, những hoạt động
phá hoại không có đất để tồn tại.
Chăm lo xây dựng, củng cố thôn, buôn thành một cộng đồng về cư trú, phải
có một không gian sinh tồn. Như đất đai canh tác, chăn thả gia súc, làm thuỷ
lợi, làm nhà cửa... Nếu không gian sinh tồn đó bị thu hẹp và xâm hại sẽ đe
doạ trực tiếp đến sự tồn vong của các dân tộc, chắc chắn sẽ tạo ra sự phản
kháng từ chính đồng bào các dân tộc.
Xây dựng thôn, buôn phải chú ý đến vấn đề sở hữu và lợi ích về đất và rừng,
giải quyết một cách hài hoà những quan hệ đó, khắc phục và hạn chế các hiện
tượng xâm phạm các sở hữu cộng đồng và lợi ích chính đáng của thôn, buôn,
tôn trọng sở hữu truyền thống của cộng đồng.
Xây dựng thôn, buôn thành một cộng đồng tâm linh lành mạnh, thể hiện trên
các phương diện sinh hoạt tín ngưỡng, lễ hội... Đây là yếu tố vô hình nhưng
bền chặt, quy tụ con người hướng về những biểu tượng linh thiêng. Các hoạt
động nghi lễ của cộng đồng thôn, buôn chủ yếu thể hiện quan hệ cụ thể giữa
con người với thiên nhiên qua những đối tượng cụ thể như đất, nước, rừng,
bếp lửa... vô hại đối với nền chính trị đương đại. Nếu không nhận thức đầy đủ
những tín ngưỡng tâm linh thiêng liêng ấy, cho nó là lạc hậu, đánh đồng nó
với những hình thức tôn giáo khác phải xoá bỏ, thì sẽ để lại “khoảng trống”
trong đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc, các loại tà đạo, tôn giáo độc
hại sẽ có điều kiện xâm nhập.
5. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở:
Cán bộ là gốc của công việc, mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ
giỏi hay kém. ở những khu vực dân cư có trình độ dân trí còn thấp kém thì
vai trò của cán bộ càng trở nên quan trọng hơn ở đâu hết. Vì vậy, đầu tư cho
công tác cán bộ ở Tây Nguyên là việc làm cần thiết và cấp bách, vừa trước
mắt vừa lâu dài.
Cần xây dựng quy hoạch cơ cấu cán bộ làm căn cứ chọn lựa từ nhỏ do nhà
nước đài thọ. Đối với cán bộ là người Kinh thì phải chọn những người đã
sống nhiều đời ở Tây Nguyên, hiểu rõ phong tục, tập quán địa phương, tiêu
chuẩn đầu tiên là phải nói thành thạo tiếng đồng bào.
Các trường chính trị tỉnh cần tập trung hướng vào làm tốt công tác đào tạo
cán bộ cơ sở, chú ý đội ngũ cán bộ làm chuyên trách ở các thôn, buôn, đội
ngũ già làng, trưởng bản, cộng tác viên... giúp họ có điều kiện tiếp cận với cái
mới và có những nghiệp vụ cần thiết trong công tác ở cộng đồng dân cư. Chủ
động đào tạo các chức sắc tôn giáo ở các trường chính thống để họ hiểu chủ
trương đường lối của Đảng, giúp họ có đủ nhận thức để chủ động tránh được
sự lợi dụng của các tổ chức tôn giáo trá hình vì mục tiêu chính trị phản động.
Thực hiện chế độ bắt buộc học tiếng phổ thông đối với học sinh từ tiểu học
trở lên. Bắt buộc cán bộ phải biết tiếng dân tộc, ít nhất họ phải biết nghe, biết
xử lý những ý kiến của đồng bào nêu ra, hết sức tránh thái độ thụ động, vị nể,
theo đuôi quần chúng. Trước mắt, cũng cần đầu tư kinh phí cho đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cơ sở là người dân tộc thiểu số tại chỗ kết hợp với tăng cường
cán bộ tỉnh, huyện cho những cơ sở đang thiếu cán bộ; hết sức chú ý số bộ
đội xuất ngũ là người địa phương, số cán bộ, bộ đội từ miền xuôi lên công tác
có nguyện vọng ở lại lâu dài, tuy nhiên chỉ nên coi tăng cường cán bộ cho cơ
sở là giải pháp tình thế.
Tây Nguyên hiện vẫn là một địa bàn hết sức phức tạp và nhạy cảm hiện nay,
việc ngăn chặn âm mưu và hành động phá hoại của kẻ thù không gì hơn là
phải biết dựa vào dân. Đảm bảo những điều kiện tốt nhất cho đồng bào có khả
năng tự đứng vững trên đôi chân của mình không chỉ huy động được sức dân,
tạo điều kiện để toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà còn là
điều kiện tốt nhất để nâng cao năng lực thực hành dân chủ trong nhân dân,
làm sao cho người dân tự hoàn thiện chế độ dân chủ của chính mình, từ cơ sở
và cũng là điều kiện để cán bộ trưởng thành nhanh chóng và toàn diện từ
trong dân. Đó là cách tốt nhất bảo vệ những thành quả cách mạng tốt đẹp của
chúng ta.
TS.Nguyễn Thị Tâm