Khái niệm
Mưa axít đựoc phát hiện lần đầu tiên vào năm 1984 tại Thuỵ Điển.
Mưa axit là do sự kết hợp của ứoc ôxít phi kim và nước.Nước có sẵn trong
tự nhiên,các ôxít được thải ra từ hoạt động của con người,đặc biệt là việc sử dụng các nhiên liệu hoá thạch.Và điều đó dẫn đến kết quả là những cơn mưa axít
8 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2119 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ba vấn đề lớn mang tính chất toàn cầu đối với môi trường hiện nay là hiệu ứng nhà kính, phá hoại tầng ozôn và mưa axit, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ba vấn đề lớn mang tính chất toàn cầu đối với môi trường hiện nay là hiệu ứng nhà kính, phá hoại tầng ozôn và mưa axit.
A Mưa axit
I Khái niệm _nguyên nhân của mưa axit
1_Khái niệm
Mưa axít đựoc phát hiện lần đầu tiên vào năm 1984 tại Thuỵ Điển.
Mưa axit là do sự kết hợp của ứoc ôxít phi kim và nước.Nước có sẵn trong
tự nhiên,các ôxít được thải ra từ hoạt động của con người,đặc biệt là việc sử dụng các nhiên liệu hoá thạch.Và điều đó dẫn đến kết quả là những cơn mưa axít
Mưa axit
2_Nguyên nhân
Nguyên chủ yếu là các loại ôxít nito( N2O,N2O3,N2O4) Và ôxít lưu huỳnh(SO,SO2,SO3).Những loại ôxít này tạo nên những loại axít mạnh nhất là axít nitric (HNO3) và axít sulfuric (H2SO4).Ngoài ra còn một số nguyên nhân dẫn tới hiện tượng mưa axít trong tự nhiên như những vụ phun trào của núi lửa hay các đám cháy.
Tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu vẫn bắt nguồn từ các hoạt động cuả con người.Chỉ trong năm 1997 Mỹ đã thải vào bầu khí quyển 31 triệu tấn ôxít sulfur và 22 triêu tấn ôxít nito.Điều này có nghĩa là khoảng 500kg/1 người.
80% ôxít sulfur là do hoạt động của các thiết bị tạo năng lượng,15% là do hoạt động đôt cháy của các ngành công nghiệp khác nhau ,và 5% từ các nguồn khác.Còn với ôxít nito 1/3 do hoạt động của các máy phát năng lượng,1/3 là do đốt nhiên liệu để chuyển hoá thành năng lượng và phần còn lại cũng do các nguồn khác nhau.
Khi trời mưa, các hạt axit này tan lẫn vào nước mưa, làm độ pH của nước mưa giảm. Mưa axit là hiện tượng mưa mà nước mưa có độ pH dưới 5.6 (độ pH chỉ tính chất axit hoặc kiềm của nước. Khi độ pH nhỏ hơn 5.6, nước có tính axit, ăn mũn cỏc vật dụng bằng kim loại, ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa, gây đau bụng, ói mửa). Mưa axit là hậu quả của quá trỡnh phỏt triển sản xuất con người tiêu thụ nhiều than đá, dầu mỏ và các nhiên liệu tự nhiên khác.
Do có độ chua khá lớn, nớc mưa có thể hoà tan được một số bụi kim loại và ôxit kim loại có trong không khí như ôxit chỡ,... làm cho nước mưa trở nên độc hơn đối với cây cối, vật nuôi và con người.
II Cơ chế hình thành mưa axít
MƯA AXIT: những cơn mưa mà nước mưa có độ pH <5,6 (giá trị pH của dung dịch axit cacbonic H2CO3 bóo hoà trong nước cất) (xt. Chỉ số hiđro). Nguồn gốc của MA là khí sunfua đioxit (SO2) được tạo thành từ quỏ trỡnh đốt nhiên liệu có nguồn gốc dầu như than, dầu khí..., từ quá trỡnh thối rữa của cỏc loài thực vật, sinh vật phự du và khớ nitơ đioxit (NO2) tạo thành từ quá trỡnh phản ứng trong cỏc nhà mỏy điện và các ống xả khói của các nhà máy công nghiệp. Những phản ứng hoỏ học chớnh của quỏ trỡnh hỡnh thành axit sunfuric (H2SO4) và axit nitric (HNO3) trong nước mưa tạo thành MA có thể được biểu diễn đơn giản như sau: S (than) + O2 → SO2 (1) 2SO2 + O2 →(không khí) → SO3 (2) SO3 + H2O (không khí) → H2SO4 (3) NO2 + O2 (không khí) → N2O5 (4) N2O5 + 3H2O (không khí) → 6HNO3 (5) Phản ứng (2) và (3) được xúc tác bởi các chất như ion amoni (NH4+), ozon, vv.; phản ứng (4) và (5) được xúc tác bởi ion Mg++, NH4+, Fe+++, Fe++, ... có trong không khí, đặc biệt là không khí bị ô nhiễm nặng.
III Tác hại của mưa axít
Mưa axit ảnh hưởng xấu tới các thuỷ vực (ao, hồ). Các dũng chảy do mưa axit đổ vào hồ, ao sẽ làm độ pH của hồ, ao giảm đi nhanh chóng, các sinh vật trong hồ, ao suy yếu hoặc chết hoàn toàn. Hồ, ao trở thành các thuỷ vực chết.
Đất nước láng giềng Thụy Điển, 4.000 hồ không hề có cá; 9.000 hồ bị mất một phần lớn các loài cá đang sinh sống, trong khi đó có tới 20.000 hồ khác cũng bị ảnh hưởng bởi mưa axit.
Mưa axit ảnh hưởng xấu tới đất do nước mưa ngầm xuống đất làm tăng độ chua của đất, hoà tan các nguyên tố trong đất cần thiết cho cây như canxi (Ca), Magiê (Mg),... làm suy thoái đất, cây cối kém phát triển. Lá cây gặp mưa axit sẽ bị "cháy" lấm chấm, mầm sẽ chết khô, làm cho khả năng quang hợp của cây giảm, cho năng suất thấp.
Mưa axit cũng giết hại các khu rừng. Chúng rửa trôi hoàn toàn những chất dinh dưỡng và những vi sinh vật có lợi. Mưa axit cũng làm yếu đi sức đề kháng của cây cối, dễ mắc bệnh và bị kí sinh trùng… Cây thông là loài cây đặc biệt nhạy cảm với mưa axit.
Hơn một nửa các cánh rừng của miền tây nước Đức đang ở trong những mức độ bị phá hủy khác nhau và giá trị lượng cây gỗ bị hủy hoại bởi mưa axit ước tính đạt 800 triệu đôla hàng năm.
Năm 1984, Thụy Sĩ bị thiệt hại khoảng 12 triệu cây (14% diện tích rừng cả nước), trong khi đó diện tích rừng bị mưa axit phá hủy ở Hà Lan là 40%. Và các công trỡnh của con người cũng chịu tác hại bởi mưa axit: xi măng, bê tông, vôi, đá cẩm thạch, kim loại, chất bazan và đá granit….và những thiệt hại đó là không hề nhỏ.
Một cánh rừng thông của Czech bị hủy hoại bởi mưa axit. (Ảnh chụp tháng 7/2006, theo PD)
Mưa axit cũn phỏ huỷ cỏc vật liệu làm bằng kim loại như sắt, đồng, kẽm,... làm giảm tuổi thọ các công trỡnh xõy dựng.
Bề mặt đá cẩm thạch tiếp xúc với mưa đang ngày trở nên thô ráp bởi chất canxit (CaCO3) bị hũa tan dần trong những cơn mưa. Đây là chi tiết trên cột chính của nhà tưởng niệm các Tổng thống Mĩ có tên gọi Jefferson Memorial tại thủ đô Washington, D.C, Mĩ. (theo Softpedia News)
Ông khói các nhà máy mạ đồng và kền ở thành phố Sudbury của Canada với chiều cao hơn 400m thải 1% lượng sulfur vào bầu khí quyển của Trái Đất. Các loài cá bị diệt vong là bởi mưa axit đó hủy hoại nguồn thức ăn của chúng, các loài thực vật và thế hệ tiếp sau. Và không có cá, các loài chim và động vật có vú cũng bị tuyệt diệt.
Và cỏc cụng trỡnh của con người cũng chịu tác hại bởi mưa axit: xi măng, bê tông, vôi, đá cẩm thạch, kim loại, chất bazan và đá granit….và những thiệt hại đó là không hề nhỏ.
Ở thủ đô London, mưa axit đang tàn phá nghiêm trọng các công trỡnh nghệ thuật bằng đá từ thế kỉ 18, 19, như Nghị viện Anh, Tu viện Westminster và Nhà thờ Saint Paul.
Mưa axit đặc biệt nguy hại đối với môi trường.
Đôi khi, kể cả kính tuyết cũng cú thể là axit, và những bụng tuyết thậm chớ cũn cú thể bị nhuốm đen. Khi những bông tuyết này tan ra, nguồn nước sinh ra từ đó có nồng độ axit cao gấp 10 lần so với nước mưa axit thông thường. Cơn mưa axit đầu tiên được chỉ ra là vào những năm 50 thế kỉ 20 tại Na-Uy. Khi đó các nhà khoa học đang bị thách thức bởi hiện tượng rất nhiều loài cá trong các hồ của Na-Uy bị thoái hóa.
Sức khỏe con người cũng bị ảnh hưởng nhiều bởi mưa axit. Chúng làm cơ quan hô hấp của con người dễ bị thương tổn hơn, gây ra các bệnh về phổi, và khiến bệnh tỡnh của cỏc bệnh nhõn ngày càng trầm trọng hơn.
B Hiệu ứng nhà kính
I Khái niệm_nguyên nhân
Hiệu ứng nhà kính, xuất phát từ effet de serre trong tiếng Pháp, do nhà toán học người Pháp Jean Baptiste Joseph Fourier lần đầu tiên đặt tên vào năm 1824 thông qua một vụ nổ mạnh trong khí quyển làm nhiệt độ của một vùng tăng lên. Năm 1827, Joseph Fourier đưa ra nguyên lý giải thớch hiện tượng Hiệu ứng nhà kính gây được sự quan tâm lớn của giới khoa học. Hiệu ứng nhà kính dùng để chỉ hiệu ứng xảy ra khi năng lượng bức xạ của tia sáng mặt trời, xuyên qua các cửa sổ hoặc mái nhà bằng kính, được hấp thụ và phân tán trở lại thành nhiệt lượng cho bầu không gian bên trong, dẫn đến việc sưởi ấm toàn bộ không gian bên trong chứ không phải chỉ ở những chỗ được chiếu sáng.
Qua nghiên cứu, các nhà khoa học giải thích: Hiệu ứng nhà kính là hiệu ứng làm cho không khí của Trái đất nóng lên do bức xạ sóng ngắn của Mặt trời có thể xuyên qua tầng khí quyển chiếu xuống mặt đất; mặt đất hấp thu nóng lên lại bức xạ sóng dài vào khí quyển để CO2 hấp thu làm cho không khí nóng lên.
Ngoài CO2 ra, cũn cú metan, ozụn, cỏc halogen và hơi nước cũng có tác dụng quan trọng gây hiệu ứng nhà kính.
Theo phân tích trong 200 năm qua nồng độ CO2 đó tăng lên 25%, nhiệt độ trung bỡnh của Trỏi đất tăng lên 0,5 độ C. Ước tính đến giữa thế kỷ sau, bề mặt Trái đất sẽ nóng thêm 1,5 - 4,5 độ C; trong đó nhiệt độ ở vĩ độ trung và cao tăng lên càng nhiều.
Nguyờn nhõn:
Do sự gia tăng đỏng kể lượng khớ nhà kớnh. Đú là:
Khớ cacbonic: do quỏ trỡnh đốt chỏy nhiờn liệu húa thạch như than đỏ, dầu mỏ… hay do đốt gỗ, củi và cỏc chất thải trong chế biến nụng sản.
Khớ metan: sản phẩm của quỏ trỡnh phõn hủy chất hữu cơ cú trong cỏc chất thải nụng nghiệp, quỏ trỡnh xử lý chất thải và khai thỏc nhiờn liệu húa thạch.
Oxit nitơ( đặc biệt N2O) : sinh ra do cỏc hoạt động nụng nghiệp và cụng nghiệp sản xuất một số loại axit.
Khí thải - tác nhân gây hiệu ứng nhà kính
Đốt nhiên liệu hoá thạch là yếu tố chính tạo ra khí thải độc hại
1. Khí thải gây hiệu ứng nhà kính tăng mức kỷ lục
2. Huy động cộng đồng bảo vệ môi trường
1. Khí thải gây hiệu ứng nhà kính tăng mức kỷ lục
Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) ngày 25/11 công bố báo cáo cho biết mật độ các loại khí thải gây hiệu ứng nhà kính, nguyên nhân làm trái đất ấm dần lên, đó tăng lên mức kỷ lục trong năm 2007.
Theo số liệu thống kê mới nhất của WMO, lượng khí điôxít cácbon (CO2) trong khí quyển đó lờn tới 383,1 phần triệu (ppm), tăng 0,5% so với năm 2006. Mật độ ôxít nitơ trong năm 2007 cũng ở mức cao kỷ lục (tăng 0,25%) và lượng khí mêtan tăng 0,34%, vượt cả mức cao nhất đo được trong năm 2003.
Thống kê của WMO cho biết 4 loại khí thải gây hiệu ứng nhà kính phổ biến nhất trong khí quyển là CO2, mêtan, ôxít nitơ và clophloruacácbon (CFC).