Đi tìm câu trả lời người Việt làm chủ và khai thác Biển
Đông từ lúc nào, các nhà khoa học không chỉ dựa vào
niềm tin truyền thuyết mà phải căn cứ vào bằng chứng từ
những cổ vật.
8 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1502 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Biển và người Việt thời cổ đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Biển & người Việt thời cổ
đại
Đi tìm câu trả lời người Việt làm chủ và khai thác Biển
Đông từ lúc nào, các nhà khoa học không chỉ dựa vào
niềm tin truyền thuyết mà phải căn cứ vào bằng chứng từ
những cổ vật.
Khai thác đảo
Có lẽ người cổ nước ta biết khai thác biển, đảo từ thời văn
hóa Hòa Bình, cách đây vạn năm. Kết quả khai quật mới nhất
tại các hang động khu vực Tràng An, Ninh Bình của các nhà
khoa học Anh và Việt Nam cho thấy nơi đây lúc ngập nước,
biển dâng theo hiện tượng mà địa chất có tên gọi là “biển
tiến”, người ta đã khai thác hải sản làm thức ăn, nước biển
rút, người ta lại khai thác ốc núi. Người xưa đã “sống chung
với biển” và khai thác sản vật biển một cách đơn sơ quanh
“vịnh biển Tràng An” từ buổi ấy.
Mô hình một con tàu đi biển thế kỷ 18 trong con tàu đắm Cà
Mau.
Muộn hơn vài ngàn năm, họ đã tận lực khai thác biển hơn.
Món ăn khoái khẩu lúc này là sò và điệp từ biển. Ăn xong
vứt vỏ tại chỗ ở. Vì thế mà ngày nay, người ta còn gặp những
đống vỏ sò điệp dày vài mét ở vùng Quỳnh Văn (Nghệ An),
Thạch Lạc (Hà Tĩnh), Bàu Tró (Quảng Bình). Các nền văn
hóa cồn sò điệp này là bằng chứng của việc người xưa dựa
vào biển để sinh tồn.
Cùng với việc khai thác ven biển, người xưa còn khai thác
các đảo. Trong văn hóa Hạ Long, cách đây 4.000 năm, có
những di tích nằm giữa biển khơi, trên đảo. Phải có thuyền
hoặc bè mới ra được đảo. Vì thế, ắt hẳn người xưa đã biết
làm thuyền bè từ thời buổi ấy. Các nhà khoa học lại biết được
người xưa không chỉ đánh bắt cá trên mặt biển, mà còn biết
khai thác vùng đáy biển. Dấu tích chinh phục đảo rõ rệt thuộc
về người cổ ở đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi. Họ là những cư dân
thuộc văn hóa Sa Huỳnh, tiền nhân của người Chăm, cũng là
một thành tố sau này nhập vào dân tộc Việt. Lý Sơn cách đất
liền vài chục km, nhưng đã có người Sa Huỳnh cư trú lâu dài
ở làng cổ Xóm Ốc và Suối Chình vào thời điểm 2.000 năm
trước.
Đĩa gốm men Arita, Nhật Bản.
Giao lưu văn hóa đường biển
Trình độ đi biển rất giỏi của người Sa Huỳnh thể hiện ở việc
họ đã dùng thuyền bè băng ngang Biển Đông đến vùng quần
đảo Trường Sa. Cuộc khai quật 50m2 đảo Trường Sa Lớn
của Viện Khảo cổ trước đây đã tìm được những mảnh gốm
có phong cách Sa Huỳnh. Một số đồ trang sức Sa Huỳnh điển
hình như khuyên tai hai đầu thú và khuyên tai ba mấu nhọn
có mặt ở hang Ta Bon của quốc đảo này. Những khuyên tai
đặc biệt này còn tìm thấy được ở Thái Lan, Đài Loan do giao
lưu văn hóa theo đường biển.
Một phần của bức tranh cuốn Jyomyo tả cảnh Hội An thế kỷ
17.
Cư dân Đông Sơn cũng là cư dân đi biển giỏi không kém cư
dân Sa Huỳnh, thậm chí họ còn đi tới những vùng biển xa
hơn, mà bằng chứng là họ mang những trống đồng Đông Sơn
đi đến nhiều đảo ở Indonesia, đến vùng biển Malaysia, Thái
Lan. Một chiếc trống đồng minh khí chôn trong ngôi mộ ở
tỉnh Chiết Giang, cửa sông Trường Giang (Trung Quốc) là
bằng chứng giao lưu xa nhất về phía bắc của người Đông Sơn
theo đường biển.
Ngoài việc khai thác Biển Đông ở khía cạnh sản vật và giao
lưu đây đó trên biển, cha ông ta lập ra những cảng biển để
thuyền bè nước ngoài đến buôn bán với nhau và với người
bản địa. Những thương cảng lớn như Vân Đồn đã được ghi
nhận trong sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: Năm Kỷ Tỵ
(1149) dưới thời Vua Lý Anh Tông, thuyền buôn ba nước
Trảo Oa (tức đảo Java, Indonesia), Lộ Lạc, Xiêm La (tức
Thái Lan) vào Hải Đông (Quảng Ninh) xin cư trú buôn bán,
bèn cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn, để mua bán
hàng hóa quý. Một thương cảng lớn nữa ở “đàng trong” thời
Trịnh-Nguyễn phân tranh là Hội An.
Từ nhiều bằng chứng xác thực, nhất là bằng chứng cổ vật đã
chứng minh người Việt Nam cổ đại đã chinh phục và khai
thác Biển Đông, các hòn đảo từ ngàn, vạn năm qua.