Bài giảng Nghiên cứu tình huống - Lạm phát ở Việt Nam

Trong thập niên 80, có lúc lạm phát ởViệt Nam lên đến 700% và đó là nỗi kinh hoàng của người dân. Lạm phát phi mã đó đã được chặn đứng bằng các giải pháp cắt giảm in tiền, tựdo hoá kinh tếvà điều chỉnh tỷgiá hối đoái trởnên thực tếhơn, người dân không còn tích trữ hàng hoá,vàng, đô la mà bắt đầu tích luỹbằng tiền đồng trong nước, xuất khẩu dầu thô tăng

pdf18 trang | Chia sẻ: maiphuongtt | Lượt xem: 2781 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Nghiên cứu tình huống - Lạm phát ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Lạm phát ở Việt Nam Niên khoá 2007-2008 1 27 tháng 9 năm 2007 Nghiên cứu tình huống Lạm phát ở Việt Nam1 Trong thập niên 80, có lúc lạm phát ở Việt Nam lên đến 700%2 và đó là nỗi kinh hoàng của người dân. Lạm phát phi mã đó đã được chặn đứng bằng các giải pháp cắt giảm in tiền, tự do hoá kinh tế và điều chỉnh tỷ giá hối đoái trở nên thực tế hơn, người dân không còn tích trữ hàng hoá,vàng, đô la mà bắt đầu tích luỹ bằng tiền đồng trong nước, xuất khẩu dầu thô tăng3. Trong thập niên 90, tăng trưởng kinh tế trung bình là 7,6% và lạm phát theo chiều hướng giảm dần ở mức tối ưu cho nền kinh tế, thậm chí có lúc nền kinh tế ở trong tình trạng giảm phát, chẳng hạn như năm 2000 (xem hình 1 và 2). Thế nhưng mức giá chung này đột ngột tăng cao kể từ năm 2004 và kéo dài mãi cho đến bây giờ. Nếu so sánh với những nước trong khu vực thì lạm phát của Việt Nam đang cao hơn nhiều nước (xem hình 3). Vốn dĩ là một chủ đề nhạy cảm, không những chỉ là một biến số kinh tế vĩ mô quan trọng mà nó còn gợi lại nỗi ám ảnh giá cả leo thang trong trong quá khứ của Việt Nam. Do vậy, chủ đề lạm phát đã lôi cuốn nhiều chuyên gia kinh tế lẫn nhà chức trách tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra biện pháp khắc phục. Bối cảnh tăng trưởng kinh tế trong những thập niên qua Có thể nói, tăng trưởng Việt Nam cũng mang tính chu kỳ như bao nền kinh tế khác. Đỉnh điểm của chu kỳ lần thứ nhất là năm 1995, tăng trưởng kinh tế của năm đó cao nhất trong lịch sử tăng trưởng kinh tế của Việt Nam kể từ năm 1986, khi Chính phủ tuyên bố chuyển sang nền kinh tế thị trường. Sự tăng trưởng đó được đóng góp chủ yếu là do tăng trưởng xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Tốc độ tăng trưởng sau đó giảm dần và gần như có chiều hướng suy thoái vào năm 1999 (xem hình 4), hai năm sau khủng hoảng kinh tế Đông Á. Khủng hoảng năm 1997 đã làm hầu hết các nước như Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia, Philipine… ngay lập tức rơi vào suy thoái. Song, Việt Nam không phải là quốc gia có tự do hoá trong cán cân tài khoản vốn nên phần lớn các kênh lây lan khủng hoảng trực tiếp không thể thâm nhập. Chỉ có các kênh gián tiếp như đầu tư trực tiếp và thương mại bị ảnh hưởng và vì thế khủng hoảng của Việt Nam trễ hơn các nước trên. Để ngăn chặn chiều hướng suy thoái đó của nền kinh tế, Chính phủ đã nỗ lực bằng chương trình kích cầu. Kết quả của chương trình này là đầu tư của Chính phủ tăng lên một cách nhanh chóng (xem hình 5). Nếu năm 1995, tổng đầu tư của nhà nước là 42% và khu vực nước ngoài chiếm 30,4% trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế thì 1 Tình huống này do Nguyễn Hoài Bảo soạn dựa trên dữ liệu được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các nghiên cứu tình huống của Chương trình Giảng dạy Fulbright được sử dụng làm tài liệu cho thảo luận trên lớp học, chứ không phải là để ủng hộ, phê bình hay dùng làm nguồn số liệu cho một tình huống chính sách cụ thể. 2 Năm 1986 3 David Dapice, 1995, Theo hướng rồng bay- Đổi mới kinh tế ở Việt Nam, ch3.,HIID. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Lạm phát ở Việt Nam Niên khoá 2007-2008 2 con số này tương ứng trong năm 2001 là 59% và 17% (xem hình 6). Chính nhờ điều này, tăng truởng của Việt Nam đã khôi phục và tạo ra một chu kỳ tăng trưởng tiếp theo. Trong thập niên này, cùng với những cải cách thể chế trong khu vực tư nhân và làn sóng đầu tư nước ngoài đang trở lại đã làm cho tỷ trọng tương đối của hai khu vực này tăng lên và tỷ trọng của nhà nước có phần giảm xuống. Nhưng lượng vốn đầu tư tuyệt đối vẫn nằm trong nhóm những nước có đầu tư nhà nước cao. Tăng trưởng vẫn đang giữ được ở mức cao so với nhiều nước trong khu vực. Thế nhưng bên cạnh đó, nền kinh tế bắt đầu lâm vào căn bệnh lạm phát. Nổ ra cuộc tranh luận về nguyên nhân của lạm phát Nếu lạm phát của năm 2002 và 2003 ở mức xung quanh 4% hàng năm thì lạm phát của năm 2004 bất chợt tăng lên đến 7% và tiếp tục giữ mức cao này cho mãi đến bây giờ. Ngay cả ngài thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Đức Thúy cũng đã phải thốt lên “tôi có bị bất ngờ về điều này”4. Một cách tổng quát, có ba nhóm ý kiến trái ngược nhau về lý do của lạm phát. Vấn đề của đo lường? Lạm phát cao bắt nguồn từ tỷ trọng của một số hàng hoá thiết yếu trong rổ hàng hoá tính chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là quá cao và có thể đã lỗi thời, vì thế cần thay đổi lại tỷ trọng này hoặc phải có một chỉ số giá nào đó đo lường trung thực hơn, chẳng hạn như tính toán lạm phát cơ bản (core infltion). Thật vậy, số liệu lạm phát tính bằng chỉ số CPI hàng năm của Việt Nam nếu phân tích một cách chi tiết thì phần tăng giá bắt nguồn từ giá của nhóm hàng lương thực - thực phẩm (xem hình 7). Nếu như năm 2003, giá hàng lương thực - thực phẩm biến động xung quanh giá trị trung bình của CPI thì bắt đầu từ năm 2004 cho đến nay, chỉ số giá của nhóm hàng lương thực - thực phẩm luôn cao hơn chỉ số giá trung bình. Hơn nữa, không chỉ vì lý do giá nhóm hàng này tăng cao mà trọng số nhóm này chiếm 47,9% trong rỗ hàng hoá tính CPI. Chính nhóm này đã đẩy mức lạm phát chung tăng cao. Với lý do đó, một quan chức cấp cao của Ngân hàng Nhà nước đã tuyên bố trên báo Kinh tế Sài gòn rằng “CPI hiện chỉ được tính dựa trên 384 mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. Rất nhiều mặt hàng quan trọng khác chưa được đưa vào rổ hàng hóa này như vàng, bất động sản, các loại giấy tờ có giá… là những loại hàng hóa đang rất thông dụng và có giao dịch ngày càng tăng trên thị trường”5. Một chuyên gia khác của Viện Nghiên cứu thương mại cũng khẳng định điều này. Phân tích của chuyên gia này cho thấy cơ cấu của rổ hàng hóa để tính CPI có tới 47,9% các mặt hàng lương thực - thực phẩm và công thức tính CPI sử dụng quyền số cố định không còn phù hợp với tính chất của một nền kinh tế mở. Ông cho rằng: “CPI của Việt Nam có thể được xem là không phản ánh đúng tình trạng lạm phát của nền kinh tế”. 4 Theo Lao Động, sử dụng lại bản điện tử của www.tintucvietnam.com ngày 26/5/2004. 5 Vũ Quang Việt, “Vẫn còn những cái nhìn nhầm lẫn về CPI”, TBKTSG số …. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Lạm phát ở Việt Nam Niên khoá 2007-2008 3 Thế nhưng không phải ai cũng đồng tình với nhận định này, một chuyên gia kinh tế khác thì cho rằng “nếu xem xét tổng thể các nhóm hàng hóa tiêu dùng và so sánh với các nước tương tự, thì số liệu ở Việt Nam không phải là có vấn đề. Tỷ lệ chi tiêu vào lương thực - thực phẩm ở Việt Nam tương đương với Ấn Độ và Philippines là hai nước có thu nhập đầu người thấp hơn Thái Lan và Singapore”6 (xem bảng 1). Nhưng ngay cả khi giả định rằng có sự chấp nhận về cách tính toán CPI hiện tại, vẫn còn nhiều ý kiến nghi ngờ về tính trung thực của lạm phát khi tính bằng chỉ số giá này, nhất là dùng nó để điều hành chính sách tiền tệ. Cần thiết phải tính toán một loại chỉ số khác có tính trung thực hơn gọi là lạm phát cơ bản (core inflation) hay chỉ số giá tiêu dùng cơ bản (core CPI). Về cơ bản, nguyên lý chung để xây dựng chỉ số lạm phát cơ bản là dựa trên biến động giá cả của các mặt hàng. Nhưng nếu khi CPI bao gồm biến động giá cả của hầu hết các loại mặt hàng (ở Việt Nam là khoảng 400 loại chia làm 86 nhóm), thì lạm phát cơ bản phải loại trừ đi những mặt hàng có sự biến động thiếu ổn định, thường chịu tác động của những cú sốc đột biến về cung cầu (xăng dầu, lương thực thực phẩm, sắp thép, xi măng, phân bón... như vừa qua là một ví dụ)7. Sở dĩ như vậy bởi lạm phát cơ bản khác với lạm phát dựa vào CPI như hiện nay là sự biến động của nó theo chiều hướng ổn định. Trên cơ sở đó, các nhà hoạch định chính sách mới có thể đề ra được chiến lược điều hành một cách lâu dài, đặc biệt đối với chính sách tiền tệ. Tác động của nới lỏng hay thắt chặt chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế luôn có ''độ trễ'' nhất định (chính sách tiền tệ chỉ thực sự ảnh hưởng đến nền kinh tế sau một thời gian thực hiện chứ thường không tác động ngay). Đối với thị trường tiền tệ chưa phát triển như Việt Nam, ''độ trễ'' khoảng 1 năm. Chính vì thế, sự biến động của CPI chỉ có thể dùng để xây dựng các chính sách tài chính, phân phối... như đã từng áp dụng đối với xăng dầu hay sắt thép từ đầu năm đến nay để xử lý hay điều tiết, chứ không thể dùng CPI để xây dựng chính sách tiền tệ. Nhưng ngay lập tức, giống như trong một trận bóng đang ở phút cuối. Quả bóng không bao giờ ở lâu trong chân của đội nào! Chỉ số giá tiêu dùng cơ bản (core CPI) là chỉ số không được Hội đồng Thống kê Liên hiệp quốc và giới thống kê công nhận. Tuy vậy, một số nước nhất là các Ngân hàng Trung ương, biên soạn chỉ số này nhằm theo dõi kịp thời chỉ số giá CPI cơ bản sau khi loại trừ những hàng hóa quan trọng nhưng thường bị ảnh hưởng bởi những biến động bất ngờ, như giá dầu hoặc giá một số lương thực nào đó và như vậy cho phép họ theo dõi kịp thời một phần nào tác dụng của chính sách tiền tệ và tín dụng. Làm như thế là vi phạm vào nguyên tắc thống kê và bỏ qua các liên hệ kinh tế có tính trùng khớp trong nền kinh tế, bởi vì cuối cùng dù có loại bỏ một vài loại hàng thì không thể loại bỏ hết được ảnh hưởng gián tiếp của chúng. Việc đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau trên giá là vấn đề phân tích kinh tế, chứ không phải là vấn đề thống kê. Tuy nhiên, việc loại bỏ một vài hàng hóa khỏi rổ có thể hiểu được vì các nhà kinh tế cần có thống kê nhằm kịp thời theo dõi tình hình từng tháng. Đánh giá kinh tế, 6 Vũ Quang Việt, “Vẫn còn những cái nhìn nhầm lẫn về CPI”, TBKTSG số …. 7 Hồng Phúc, SBV đi tìm lạm phát thực,VNN 17/09/2004. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Lạm phát ở Việt Nam Niên khoá 2007-2008 4 tìm hiểu nguyên nhân tại sao CPI (hay lạm phát) tăng đòi hỏi các thống kê tổng hợp theo chuỗi thời gian và lý thuyết kinh tế. Các thống kê tổng hợp này không thể có từng tháng mà phải mất ít nhất hơn một năm để biên soạn. Dù có thống kê toàn diện thì việc đánh giá nguyên nhân là vấn đề độc lập với thống kê, vì thống kê chỉ chụp ảnh chứ không giải thích thực tại. Nhập khẩu lạm phát? Thật hết sức trùng hợp, lạm phát của Việt Nam tăng vọt lên cũng là lúc giá dầu thô của thế giới tăng cao nhất kể từ cuộc chiến vùng vịnh năm 1990 (xem hình 8). Giá dầu tăng vọt như vậy đã kéo theo hàng loạt giá của các mặt hàng có liên quan đến dầu tăng lên nhanh chóng. Chẳng hạn như giá phôi thép, xi măng, phân bón, sợi…(xem bảng 2) và đây chính là hàng hoá nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam. Không những thế, thời điểm năm 2004 lại bùng phát những đợt dịch cúm gia cầm kéo dài và tạo ra khủng hoảng thiếu về lương thực thực phẩm có nguồn gốc từ loài động vật. Tất cả những sự kiện này như là lời giải đáp quá rõ ràng cho lạm phát của Việt Nam. Một cách chi tiết hơn, một chuyên gia cao cấp của IMF đã phân tích từng nhóm nguyên nhân cơ bản tạo ra sự tăng giá trong từng nhóm hàng hoá của CPI (xem hình 9)8. Nhóm lương thực - thực phẩm tăng giá là do ảnh hưởng của giá gạo9, thời tiết mùa vụ và cúm gia cầm. Nhóm nhà cửa, vật liệu xây dựng thì bị ảnh hưởng bởi giá thép, và nhóm giao thông. Bưu điện, viễn thông tăng giá là do ảnh hưởng của giá dầu. Đây là những nhóm có trọng số cao nhất trong rỗ hàng hoá CPI, vì thế đã đẩy lạm phát của Việt Nam cao hơn mức bình thường. Thật trớ trêu, người kế nhiệm của chuyên gia cao cấp trên lại không suy nghĩ như vậy. Ông nhấn mạnh “Trên thực tế, việc giá dầu tăng tác động không lớn đến CPI của Việt Nam là do Chính phủ tích cực bù lỗ, ngoài việc đánh thuế nhập khẩu xăng dầu ở mức 0%”. Cụ thể, năm 2005, Chính phủ đã phải bỏ ra khoản tiền tương đương 1,5% GDP để bù lỗ; năm 2006 cần phải bỏ ra 1,4% GDP để bù lỗ, nếu giá dầu bình quân đạt 61,75 USD/thùng và 3,2% GDP để bù lỗ, nếu giá dầu bình quân đại 71,75 USD/thùng. … Nhờ sự bù lỗ kể trên, cộng với việc quyền số của xăng dầu trong rổ hàng hoá để xác định CPI thấp, nên giá xăng dầu tăng không ảnh hưởng nhiều đến CPI của Việt Nam. Ông tính toán, giá dầu tăng chỉ chiếm tỷ trọng 9,2% trong CPI của Việt Nam. Trong đó, tác động trực tiếp là 3,3% và tác động gián tiếp (do giá nhiên liệu tăng nên nhiều ngành, hàng tăng giá, đặc biệt là ngành giao thông vận tải) là 5,9%10. 8 Theo báo cáo của Susan Adam - trưởng đại điện của IMF tại Việt Nam tại Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbriht ngày 17/11/2004. 9 Vào giữa năm 2004, giá gạo tăng cao vì có khan hiếm gạo xuất khẩu. 10 Báo Đầu tư, dùng lại bản điện tử của báo Nhân Dân ngày 31/10/2005 (bài viết này trình bày lại ý kiến của ông Hong Lee, trưởng đại diện của IMF tại Việt Nam). Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Lạm phát ở Việt Nam Niên khoá 2007-2008 5 Lạm phát có phải mọi lúc mọi nơi là hiệu tượng của tiền tệ? Năm 1963, nhà kinh tế học Friedman đã tuyên bố “lạm phát ở mọi nơi luôn luôn là hiện tượng của tiền tệ”11. Nghĩa là, việc mở rộng cung tiền thì trước sau gì cũng đẩy lạm phát tăng lên. Ngay lập tức môn đệ của Friedman đã tìm các bằng chứng cho rằng lạm phát của Việt Nam cũng là một hiện tượng tiền tệ. Một trong các điều đó là tốc độ tăng trưởng khối tiền rộng (M2) của Việt Nam tăng rất nhanh trong thời gian qua, nhất là khi so sánh với Thái Lan và Trung Quốc. Hàng năm mức tăng này của Việt Nam trung bình khoảng 30%, tức là gấp đôi mức tăng của Trung Quốc và gấp gần 3 lần so với Thái Lan (xem hình 10). Nhưng đúng là cao hơn của hai nước láng giềng về số đo, song không có cơ sở khoa học nào để so sánh như vậy. Bởi lẽ ba đất nước khác nhau về sự phát triển của nền kinh tế nói chung và tính chất của thị trường tiền tệ nói riêng. Nếu sử dụng số liệu về độ sâu tài chính giữa các nước này thì Việt Nam lại là nền kinh tế ít giao dịch bằng tiền hơn tất cả. Ví dụ, số liệu năm 2003, tỷ phần M2/GDP của Việt Nam là 36% thì con số tương ứng của Thái Lan và Trung Quốc là 82% và 117%. Nếu tính tín dụng trong nền kinh tế so với GDP thì cũng có tương quan tương tự. Nếu sự so sánh giữa các nước khác nhau không thoả mãn, thì sự so sánh chính mình theo thời gian lại đặt ra một câu hỏi khác. Nếu giả sử số liệu là tin cậy, thì thật ra tốc độ tăng cung tiền cao hơn là một “đặc điểm” của Việt Nam. Không phải từ những ngày có lạm phát cao mà đã xảy ra từ năm 2000, tại sao lúc đó không có lạm phát? Nhiều người tinh tế hơn, nhận định rằng FDI vào Việt Nam tăng rất nhanh trong một hai năm gần đây, cùng với lượng kiều hối chuyển về nước đã bơm vào nền kinh tế một khối lượng lớn ngoại tệ (hình 11). Để đảm bảo tỷ giá vẫn ổn định (xem hình 12) thì ngân hàng Nhà nước buộc lòng phải mua vào số ngoại tệ đó, bằng chứng là lượng dự trữ ngoại tệ của Việt Nam tăng nhanh trong 2 năm vừa rồi (xem bảng 3). Tăng dự trữ ngoại tệ cũng đồng nghĩa với đưa một lường tiền đồng tương đương vào lưu thông và điều này là nguyên nhân của lạm phát. Thế nhưng, diễn biến kinh tế thật phức tạp. Trung Quốc cũng nằm trong tình huống khá giống Việt Nam, lượng dự trữ hàng năm của họ tăng rất nhanh (xem bảng 3) và Ngân hàng Nhân dân của họ cũng có mục tiêu giữ cho nhân dân tệ không tăng giá song lạm phát của họ không có chiều hướng giống Việt Nam. Một vài tháng gần đây lạm phát của Trung Quốc có chiều hướng tăng lên nhưng vẫn còn rất thấp, tháng 8/2007 lạm phát của họ là 6,5%.Thời gian trước lạm phát đều thấp hơn 3%. 11 Friedman, 1963, Inflation: Causes and Consequences. New York: Asia Publishing House. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Lạm phát ở Việt Nam Niên khoá 2007-2008 6 Giải pháp gần đây Không giống như các nước, chính phủ, thay vì ngân hàng trung ương, lại là nơi đưa ra các biện pháp để giảm lạm phát. Ngày 1/8/2007, chỉ thị số 18/2007/CT-TTg về “Một số biện pháp cấp bách kiềm chế tốc độ tăng giá thị trường” đã được ban hành (xem phụ lục II). Câu hỏi thảo luận 1. Theo anh chị, nguyên nhân nào dẫn đến lạm phát của Việt Nam tăng cao trong những năm vừa rồi, hãy tìm cơ sở lý thuyết và số liệu thống kê minh hoạ cho lập luận của mình? 2. Đọc kỹ chỉ thị số 18/2007/CT-TTg ở phần Phụ lục II và phân biệt giải pháp hình chính (phi kinh tế) và giải pháp kinh tế của chính phủ trong nỗ lực giảm lạm phát? 3. Hãy tìm kiếm cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực tế cho các giải pháp kinh tế của chính phủ ở câu 2. phía trên. 4. So sánh giải pháp của chính phủ và quan điểm phân tích của anh chị ở câu 1. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Lạm phát ở Việt Nam Niên khoá 2007-2008 7 Phụ lục I: Số liệu thống kê Hình 1: Lạm phát của Việt Nam từ năm 1986 đến nay Nguồn: Số liệu thống kê của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB). Hình 2: Lạm phát của Việt Nam gần đây (tính bằng CPI) Nguồn: số liệu thống kê của ADB và Tổng cục thống kê. Lạm phát năm 2007 là tháng 8/2007 so với tháng 8/2006. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Lạm phát ở Việt Nam Niên khoá 2007-2008 8 Hình 3: lạm phát của Việt Nam và một số nước trong khu vực. Nguồn: IMF, 2006, Viet Nam selected Issues- IMF country Report No. 06/442 Hình 4: Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam,Thái Lan và Trung Quốc (%) Nguồn: Số liệu thống kê của ADB. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Lạm phát ở Việt Nam Niên khoá 2007-2008 9 Hình 5: Tỷ lệ tổng đầu tư trong GDP của Việt Nam (%) Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê các năm. Hình 6: Cơ cấu đầu tư của Việt Nam theo thời gian Nguồn: Tổng cục thống kê. Số liệu 2006 là ước tính. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Lạm phát ở Việt Nam Niên khoá 2007-2008 10 Hình 7: Tốc độ tăng giá của nhóm lương thực thực phẩm hàng tháng so với mức tốc độ tăng giá chung trong các năm Nguồn: Vẽ từ số liệu của Tổng cục thống kê Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Lạm phát ở Việt Nam Niên khoá 2007-2008 11 Bảng 1: So sánh tỷ lệ nhóm lương thực thực phẩm trong rỗ hàng tính CPI của một số nước. Tỷ lệ nhóm lương thực - thực phẩm GDP trên đầu người (2002) Việt Nam (1999) 44,78 441 Ấn Độ (2001) 47,25 484 Thái Lan (2001) 31,73 2036 Philippines (2002) 49,45 992 Singapore (1997) 14,72 20790 Nguồn: United Nations, National Accounts Statistics: Main Aggregates and Detailed Tables, 2002-2003. Số liệu của Việt Nam từ Kinh tế Việt Nam đổi mới, những phân tích và đánh giá quan trọng, Nguyễn Văn Chỉnh và Vũ Quang Việt, NXB Thống kê 2002. Hình 8: Giá dầu thô trên thế giới Nguồn: WTRG Economics ( Bảng 2: Giá cả tăng vọt của một số hàng hoá của năm 2004 so với 2003(%) Thép Phôi thép Phân bón Xăng dầu Chất dẻo Bông 32.5 30.4 22.3 20.5 15.7 17 Nguồn: Bộ Thương mại Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Lạm phát ở Việt Nam Niên khoá 2007-2008 12 Hình 9: Những yếu tố gây tăng giá các nhóm hàng hoá của Việt Nam Nguồn: Báo cáo của Susan Adam tại Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright ngày 17/11/2004. Hình 10: Tăng trưởng M2 của Việt Nam, Thái Lan và Trung quốc qua các năm Nguồn: Việt Nam: IMF, số liệu năm 2006,2007 là dự báo của Economist Intellegent Unit dựa trên số liệu của IMF; Thái Lan: Ngân hàng Thái Lan (Bank of Thailand); Trung Quốc: Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (The People’s Bank of China) Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Lạm phát ở Việt Nam Niên khoá 2007-2008 13 Hình 11: Ngoại hối của Việt Nam, số liệu thống kê chính thức (triệu đô la) Nguồn: Tổng hợp từ các nguồn báo chí khác nhau. Hinh 12: Tỷ giá hối đoái của Việt Nam và Trung Quốc Nguồn: Thống kê của ADB và dự báo của the Economists Intelligent Unit. 0.0000 1.0000 2.0000 3.0000 4.0000 5.0000 6.0000 7.0000 8.0000 9.0000 10.0000 19 88 19 89 19 90 19 91 19 92 19 93 19 94 19 95 19 96 19 97 19 98 19 99 20 00 20 01 20 02 20 03 20 04 20 05 20 06 Trung Qu?c Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế vĩ mô Lạm phát ở Việt Nam Niên khoá 2007-2008 14 Bảng 3: Sự thay đổi trong dự trữ ngoại hối hàng năm của Trung Quốc và Việt Nam (tỷ đô la Mỹ) 2000 2001 2002 2003 2004