Bài giảng “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”

Chương mở đầu Nhập môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm giải quyết ba vấn đề thông lệ của một môn học trước khi đi vào các nội dung cụ thể, đó là: Học cái gì? (đối tượng của môn học); học để làm gì? (mục đích của môn học); và, cần phải học thế nào để đạt được mục đích đó? (những yêu cầu về mặt phương pháp của môn học). Chương này mở đầu bằng việc trình bày khái lược các nội dung trọng tâm và quá trình hình thành, phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm tạo ra cái nhìn tổng quát về đối tượng và phạm vi của môn học. Mục đích của môn học này được xác lập trên cơ sở vị trí của nó trong cấu tạo khung chương trình thống nhất của 3 môn học Lý luận chính trị dùng cho đối tượng sinh viên không chuyên sâu các chuyên ngành: Triết học, Kinh tế chính trị học và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Yêu cầu của môn học này đề cập những nguyên tắc cơ bản cần phải thực hiện khi triển khai dạy và học, làm cơ sở chung cho việc xác lập phương pháp, quy trình cụ thể trong hoạt động dạy và học sao cho có thể đạt được mục đích của môn học này.

doc55 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1492 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài giảng “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” Phạm Thị Hằng – GV Khoa khoa học cơ bản, Trường ĐH Công Nghệ Đồng Nai 1 Chương mở đầu NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN Chương mở đầu Nhập môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm giải quyết ba vấn đề thông lệ của một môn học trước khi đi vào các nội dung cụ thể, đó là: Học cái gì? (đối tượng của môn học); học để làm gì? (mục đích của môn học); và, cần phải học thế nào để đạt được mục đích đó? (những yêu cầu về mặt phương pháp của môn học). Chương này mở đầu bằng việc trình bày khái lược các nội dung trọng tâm và quá trình hình thành, phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm tạo ra cái nhìn tổng quát về đối tượng và phạm vi của môn học. Mục đích của môn học này được xác lập trên cơ sở vị trí của nó trong cấu tạo khung chương trình thống nhất của 3 môn học Lý luận chính trị dùng cho đối tượng sinh viên không chuyên sâu các chuyên ngành: Triết học, Kinh tế chính trị học và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Yêu cầu của môn học này đề cập những nguyên tắc cơ bản cần phải thực hiện khi triển khai dạy và học, làm cơ sở chung cho việc xác lập phương pháp, quy trình cụ thể trong hoạt động dạy và học sao cho có thể đạt được mục đích của môn học này. I. KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN 1. Chủ nghĩa Mác - Lênin và ba bộ phận lý luận cấu thành a) Chủ nghĩa Mác - Lênin Chủ nghĩa Mác - Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của C.Mác, Ph.Ăngghen và sự phát triển của V.I.Lênin; là sự kế thừa và phát triển những giá trị của lịch sử tư tưởng nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con người; là thế giới quan và phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học. b) Ba bộ phận lý luận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin Chủ nghĩa Mác - Lênin bao gồm hệ thống tri thức phong phú về nhiều lĩnh vực, nhưng trong đó có ba bộ phận lý luận quan trọng nhất là: triết học, kinh tế chính trị Bài giảng “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” Phạm Thị Hằng – GV Khoa khoa học cơ bản, Trường ĐH Công Nghệ Đồng Nai 2 học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Triết học Mác - Lênin có đối tượng nghiên cứu là những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học dù theo trường phái nào, thì cũng đều là thế giới quan và nhân sinh quan mang tính giai cấp. Triết học Mác - Lênin là thế giới quan, nhân sinh quan của giai cấp công nhân hiện đại, đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động trong thời đại ngày nay. Kinh tế chính trị học Mác - Lênin là khoa học thuộc khoa học xã hội, đối tượng nghiên cứu của nó là mặt xã hội của sản xuất, tức là quan hệ sản xuất hay là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dung của cải vật chất. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản xuất lại tồn tại và vận động trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất. Mặt khác, quan hệ sản xuất tức là cơ sở hạ tầng xã hội cũng tác động qua lại với kiến trúc thượng tầng, nhất là các mối quan hệ về chính trị, pháp lýcó tác động trở lại mạnh mẽ với quan hệ sản xuất. Vậy đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Chủ nghĩa xã hội khoa học: Nghiên cứu những quy luật và tính quy luật chính trị - xã hội của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa; những nguyên tắc cơ bản, những điều kiện, con đường, hình thức và phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân để thực hiện quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Như vậy, ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác - Lênin đều có đối tượng nghiên cứu riêng nhưng đều nằm trong một hệ thống khoa học lý luận thống nhất, đó là khoa học về giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột, tiến tới giải phóng con người. 2. Khái lược quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin a) Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác Điều kiện kinh tế - xã hội: Chủ nghĩa Mác ra đời trong những năm 40 của thế kỷ XIX. Trong thời gian này, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển ở nhiều nước châu Âu, mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ ra một cách gay Bài giảng “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” Phạm Thị Hằng – GV Khoa khoa học cơ bản, Trường ĐH Công Nghệ Đồng Nai 3 gắt. Đó là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của nền sản xuất với tính chất tư bản chủ nghĩa của sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất và về sản phẩm xã hội. Biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn này chính là sự đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân đã nổ ra ở Pháp, Đức, Anh, Mỹ. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản đã dặt ra yêu cầu bức thiết phải có lý luận cách mạng thực sự khoa học dẫn đường, đó phải là lý luận khoa học, giải thích đúng đắn bản chất của chủ nghĩa tư bản, vai trò lịch sử của giai cấp vô sản, triển vọng của phog trào đấu tranh của giai cấp vô sản và tương lai của xã hội loài người nói chung. Chủ nghĩa Mác ra đời gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và trở thành vũ khí lý luận của cuộc đấu tranh đó. Mặt khác, sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cho phép khái quát nhiều nguyên lý quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử về vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, vai trò của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng, vai trò của đấu tranh giai cấp trong lịch sử, vai trò của quần chúng nhân dân trong sự phát triển lịch sử, trên cơ sở đó, Mác đưa ra những tiên đoán khoa học về khả năng loài người sẽ tiến tới một xã hội tốt đẹp trong tương lai. Tiền đề lý luận: Chủ nghĩa Mác có ba nguồn gốc lý luận: Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị học cổ điển Anh, Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, trong đó triết học cổ điển Đức là tiền đề lý luận trực tiếp. Các Mác và Ăngghen kế thừa hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng của Hêghen, đó chính là lý luận về sự phát triển, loại bỏ cái vỏ duy tâm thần bí, đưa nó về với quan điểm duy vật và lịch sử. Đồng thời C.Mác kế thừa chủ nghĩa duy vật và tư tưởng vô thần của Phơiơbắc, khắc phục những hạn chế siêu hinh trong tư tưởng của nhà triết học tiền bối. Trên cơ sở đó C.Mác sáng lập nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là một tất yếu lịch sử. Những điều kiện lịch sử đã chin muồi cho phép cac nhà khoa học đi đến những kết luận duy vật biện chứng về thế giới nói chung và về xã hội loài người nói riêng. Chủ nghĩa Mác không thể ra đời sớm hơn khi chưa có đủ những tiền đề vật chất và tư tưởng cần thiết, nhưng cũng không thể ra đời muộn hơn. Sự thật cho thấy rằng trong thời điểm này, đã có một số nhà tư tưởng Bài giảng “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” Phạm Thị Hằng – GV Khoa khoa học cơ bản, Trường ĐH Công Nghệ Đồng Nai 4 khác cũng đi đến những kết luận duy vật lịch sử một cách độc lập với C.Mác và Ph.Ăgghen. Tiền đề khoa học tự nhiên Chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác là kết quả của sự tổng kết những thành tựu tư tưởng của nhân loại, được chứng minh và phát triển dựa trên những kết luận mới nhất của khoa học tự nhiên, trong đó có ba phát minh quan trọng nhất: - Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. (Năng lượng không tự sinh ra mà cũng không tự mất đi, nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác mà thôi). Đây là cơ sở khoa học để khẳng định rằng vật chất và vận động của vật chất không thể do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt. chúng chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác, hình thức này sang hình thức khác mà thôi. - Thuyết tiến hóa của Darwin. Darwin đã kế thừa những thành tựu của Lamax để viết nên tác phẩm Nguồn gốc các loài vào năm 1859. Học thuyết tiến hóa của ông đã luận chứng về quá trình đấu tranh sinh tồn của muôn loài, qua sự chọn lọc tự nhiên, dần dần sản sinh ra giống loài mới. Từ đó ông đưa ra lý luận về sự tiến hóa của sinh vật mà hạt nhân là quá trình chọn lọc tự nhiên, vén bức màn bí ẩn về sự tiến hóa của các loài trong tự nhiên. Lý luận tiến hóa sinh vật đã áp dụng quan điểm lịch sử vào lĩnh vực sinh vật học. Nó luận chứng về quá trình lịch sử của giới hữu cơ, chứng minh rằng, thực vật, động vật bao gồm cả loài người đều là sản phẩm phát triển của lịch sử. - Học thuyết tế bào: Học thuyết tế bào do giáo sư M.Slaiđen (Trường Đại học Gana, Đức) xây dựng năm 1838. Ông cho rằng, tế bào là đơn vị sống cơ bản nhất trong kết cấu của mọi thực vật. Qúa trình phát dục của thực vật là quá trình hình thành và phát triển của tế bào. Sau đó, vào năm 1839 giáo sư T.Svannơ (giáo sư phẫu thuật người của trường Đại học Ruăng, Đức) đã mở rộng học thuyết tế bào từ giới thực vật sang giới động vật, khiến loài người nhận thức được rằng, tế bào là đơn nguyên kết cấu chung của mọi cơ thể sinh vật. Những phát hiện nêu trên đã vạch ra quá trình biện chứng của sự vận động, phát triển, chuyển hóa không ngừng của bản than giới sinh vật. b) C.Mác, Ph.Ăngghen với quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác * Giai đoạn hình thành chủ nghĩa Mác - Thời gian từ 1842 về trước: C.Mác và Ăngghen là những thanh niên đầy nhiệt tình và lòng nhân đạo, say mê nghiên cứu triết học, nhưng chưa thoát khỏi lập trường triết Bài giảng “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” Phạm Thị Hằng – GV Khoa khoa học cơ bản, Trường ĐH Công Nghệ Đồng Nai 5 học duy tâm và lập trường dân chủ cách mạng. - Thời kỳ hình thành triết học Mác diễn ra từ 1842 đến 1848. + Bước chuyển từ lập trường triết học duy tâm và lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường duy vật và chủ nghĩa xã hội khoa học bắt đầu từ khi Mác làm việc tại báo Sông Ranh từ tháng 5 năm 1842. + Năm 1843, sau khi báo Sông Ranh bị đóng cửa, Mác bắt tay viết tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền Hêghen. + Từ 1844, C.Mác và Ăngghen cộng tác với nhau từng bước xây dựng triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. + Năm 1844, Mác viết tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học 1844, nói lên vai trò của lao động sản xuất vật chất trong việc sáng tạo ra bản thân con người và loài người, vạch ra những biểu hiện và nguyên nhân của sự tha hóa của người công nhân dưới chủ nghĩa tư bản. + Cũng trong năm 1844, Ăngghen viết tác phẩm Tình cảnh giai cấp công nhân Anh. + Cuối năm 1844, C.Mác và Ăngghen viết tác phẩm gia đình thần thánh để phê phán thế giới quan duy tâm của các đại biểu trong nhóm Hêghen trẻ, qua đó trình bày những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. + Năm 1845, Mác viết Luận cương về Phoiơbắc, vạch ra những hạn chế của Phoiơbắc trong quan niệm về con người và làm rõ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. + Năm 1845 – 1846, hai ông viết tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, tiếp tục phê phán Hêghen và chủ nghĩa duy tâm nói chung, phê phán những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác, đặc biệt là quan điểm duy tâm về lịch sử của Phoiơbắc. Đồng thời trong tác phẩm này hai ông cũng trình bày một cách có hệ thống những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử và tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản. + Năm 1847, hai ông viết tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học”, phê phán tính chất duy tâm, siêu hình trong quan niệm về các phạm trù kinh tế của P.Prudhon, phát triển phương pháp biện chứng duy vật, những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học, của kinh tế học chính trị. + Cuối 1847 đầu 1848, C.Mác và Ăngghen viết tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”. Hai ông trình bày một cách hoàn chỉnh lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp, vai trò lịch sử của giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, cương lĩnh cách mạng của giai Bài giảng “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” Phạm Thị Hằng – GV Khoa khoa học cơ bản, Trường ĐH Công Nghệ Đồng Nai 6 cấp vô sản. Bằng luận cứ khoa học và xác đáng, Tuyên ngôn đã vạch ra tính tất yếu của chủ nghĩa Cộng sản, trong đó khi sự đối kháng giai cấp bị xóa bỏ thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng không còn. “Thay cho xã hội tư bản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho phát triển tự do của tất cả mọi người” (Toàn tập, t.4, tr.628). * Giai đoạn phát triển chủ nghĩa Mác - Sau 1848 là thời kỳ C.Mác và Ăngghen bổ sung và phát triển triết học của mình. Trong thời kỳ này, C.Mác và Ăngghen tham gia phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản và triết học của các ông trở thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản ở các nước lớn ở châu Âu và châu Mỹ. - Từ 1848 đến Công xã Paris năm 1871, C.Mác và Ăngghen viết nhiều tác phẩm để tổng kết phong trào đấu tranh giai cấp ở Pháp như tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp (1848 – 1850), Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapac (1851 – 1852), Cách mạng và phản cách mạng ở Đức (do Ph.Ăngghen viết 1851 – 1852). Bộ Tư bản cũng được Mác viết trong thời kỳ này. - Từ 1871 trở đi, C.Mác và Ăngghen có thêm kinh nghiệm của Công xã Pari. Những tác phẩm hai ông viết trong thời kỳ này tiếp tục khái quát những kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân, phát triển ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác và làm phong phú them những nguyên lý của chủ nghĩa Mác. Mác tiếp tục viết tác phẩm tư bản, còn Ăngghen viết tác phẩm chống Duhring (1876 – 1878), biện chứng của tự nhiên (1873 – 1883). Sau khi Mác qua đời năm 1883, Ăngghen hoàn thành việc xuất bản bộ Tư bản của Mác, đồng thời tiếp tục lãnh đạo phong trào giai cấp công nhân và viết một số tác phẩm như: Nguồn gốc của gia đình, sở hữu tư nhân và nhà nước (1884), L.Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1886). c) V.I Lênin với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới * Bối cảnh lịch sử mới và nhu cầu bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã bước sang một giai đoạn mới: Chủ nghĩa tư bản độc quyền, chủ nghĩa đế quốc, là giai đoạn cao của chủ nghĩa tư bản. Các nước tư bản chia nhau thị trường thế giới và gây ra chiến tranh thế giới 1914 – 1918.Bài giảng “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” Phạm Thị Hằng – GV Khoa khoa học cơ bản, Trường ĐH Công Nghệ Đồng Nai 7 - Cách mạng vô sản đã trở thành nhiệm vụ trực tiếp. - Sau khi Ăngghen qua đời, các phần tử cơ hội trong Quốc tế II xuyên tạc chủ nghĩa Mác. Tình hình đó dòi hỏi Lênin phải tiến hành đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác. - Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong khoa học tự nhiên, nhất là trong vật lý học, có một loại phát minh khoa học làm đảo lộn quan niệm siêu hình về vật chất và vận động, gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học. Chủ nghĩa duy tâm lợi dụng tình trạng khủng hoảng này để tấn công và bác bỏ chủ nghĩa duy vật. Lênin phải tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật. * Vai trò của V.I Lênin đối với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới - Trước năm 1907, Lênin lãnh đạo phong trào công nhân Nga, tiến hành đấu tranh chống phái dân túy. Lênin viết các tác phẩm như: Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao (1894); Làm gì (1902); Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội trong cách mạng dân chủ (1905). Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905 – 1907, Lênin viết tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1908); Bút ký triết học (1914 – 1916); Ba bộ phận câu thành của chủ nghĩa Mác; tác phẩm C.Mác; chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1916); nhà nước và cách mạng (1917). Trong tác phẩm chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Leenin phê phán chủ nghĩa duy tâm chủ quan và phát triển chủ nghĩa duy vật, phát triển lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Trong tác phẩm Bút ký triết học, Lênin tổng kết và phát triển phép biện chứng duy vật. Lênin đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào hoàn cảnh cụ thể của nước Nga và lãnh đạo thành công cuộc cách mạng tháng Mười Nga, mở ra cho nhân loại một thời đại mới: thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sau cách mạng tháng Mười, Lênin nghiên cứu giải quyết các vấn đề của cách mạng vô sản, xây dựng cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, vấn đề xây dựng đảng và nhà nước. Những tác phẩm trong thời kỳ này là:Bài giảng “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” Phạm Thị Hằng – GV Khoa khoa học cơ bản, Trường ĐH Công Nghệ Đồng Nai 8 Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết (1918); Bệnh ấu trĩ tả khuynh và tính tiểu tư sản (1918); bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản (1920); về chính sách kinh tế mới (1921); về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu (1922). Đặc biệt, trong chính sách kinh tế mới. Lênin nêu lên tư tưởng về nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. d) Chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn phong trào cách mạng thế giới - Chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Cách mạng tháng Mười mở ra cho nhân loại thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới: Sau cuộc cách mạng tháng Mười thì chủ nghĩa xã hội từ lý luận đã trở thành thực tiễn, lịch sử phát triển của xã hội loài người xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội mới đối lập với hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Chiều hướng phát triển chủ yếu, trục chuyển động xuyên suốt của lịch sử từ sau cách mạng tháng Mười Nga là đấu tranh xóa bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ sau cách mạng Tháng Mười Nga, các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lục lượng nòng cốt, đi đầu trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên phạm vi thế giới. Sau cách mạng tháng mười, cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong phạm trù cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhiều quốc gia sau khi giành được độc lập dân tộc đã đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. - Sau khi Lênin qua đời, Đảng Cộng sản Liên Xô và các đảng cộng sản trên thế giới tiếp tục phát triển chủ nghĩa chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng nó trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội đã đem lại những thành tựu to lớn ở Liên Xô, đưa nước Nga từ một nước tư bản lạc hậu thành một trong những nước có công nghiệp và khoa học tiên tiến nhất thế giới. Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội đã góp phần tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, cổ vũ và ủng hộ phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều dân tộc bị áp bức và lạc hậu trên thế giới hướng về Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa như là ngọn cờ tiêu biểu cho Bài giảng “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” Phạm Thị Hằng – GV Khoa khoa học cơ bản, Trường ĐH Công Nghệ Đồng Nai 9 độc lập, dân chủ và công bằng xã hội. Tuy nhiên, các đảng cộng sản cầm quyền ở các nước đã mắc phải sai lầm trong việc nhanh chóng xóa bỏ kinh tế thị trường, xóa bỏ các thành phần kinh tế tư nhân, đồng nhất hợp tác hóa với tập thể hóa, duy trì quá lâu hệ thống quan liêu bao cấp khi tình hình thế giới đã có những biến đổi lớn lao. - Trong những năm đầu thập kỷ 80, chủ nghĩa xã hội bắt đầu lâm vào cuộc khủng hoảng: Sản xuất rơi vào tình trạng trì trệ, hiệu quả và tính tích cực xã hội giảm sút. Do sai lầm trong cải tổ, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Tuy nhiên, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu chỉ là sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội cụ thể chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Một số nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Namthự