CHƯƠNG 9
BẢO HIỂM XÃ HỘI I: AN SINH XÃ HỘI VÀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
Mục đích của chương này là giới thiệu các chương trình về an sinh xã hội và bảo hiểm của thất nghiệp gồm các nội dung sau:
(1) Dẫn nhập chương;
(2) Tại sao có bảo hiểm xã hội?;
(3) Cấu trúc của chương trình an sinh xã hội;
71 trang |
Chia sẻ: thanhtuan.68 | Lượt xem: 1043 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Tài chính công - Chương 9 Bảo hiểm xã hội I: An sinh xã hội và bảo hiểm thất nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 9
BẢO HIỂM XÃ HỘI I: AN SINH XÃ HỘI
VÀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
Mục đích của chương này là giới thiệu các
chương trình về an sinh xã hội và bảo hiểm của
thất nghiệp gồm các nội dung sau:
(1) Dẫn nhập chương;
(2) Tại sao có bảo hiểm xã hội?;
(3) Cấu trúc của chương trình an sinh xã hội;
CHƯƠNG 9
BẢO HIỂM XÃ HỘI I: AN SINH XÃ HỘI
VÀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP(tt)
(4) Áp lực dài hạn lên an sinh xã hội;
(5) Đổi mới an sinh xã hội;
(6) Bảo hiểm thất nghiệp;
(7) Bảo hiểm xã hội tại việt nam;
(8) Tóm lược;
(9) Câu hỏi thảo luận và bài tập
9.1. DẪN NHẬP
Cuộc sống đầy rẫy những điều bất trắc. Các sự
kiện bất ngờ như cháy nhà hay bệnh tật có thể
đột ngột gây tổn hại cho con người.
Có một cách để được bảo vệ khỏi những tình
huống có thể xảy ra như vậy là mua bảo hiểm.
Người mua bảo hiểm sẽ nhận được tiền trợ cấp
trong trường hợp gặp phải những sự kiện không
may nhất định để bù lại số phí phải đóng cho
công ty bảo hiểm.
9.1. DẪN NHẬP(tt)
Những chương trình này được gọi chung là bảo
hiểm xã hội và được liệt kê trong biểu 9.1. Như
biểu đã nêu, chi tiêu cho BHXH chiếm tỉ lệ lớn
trong chi tiêu của Chính phủ Liên bang Hoa Kỳ
và tổng sản phẩm quốc nội.
Biểu 9.1: Các chương trình bảo hiểm
xã hội chính của Mỹ
Chương trình Ngày có
hiệu lực
2000
An Sinh Xã Hội (OASDI) 1935 406 tỷ đô la
Chăm sóc y tế 1965 216
Bảo hiểm thất nghiệp 1935 21
Chăm sóc y tế cho cựu quân nhân 1917 19
% chi tiêu của Chính phủ liên bang 35,9%
% GDP 6,6%
9.1. DẪN NHẬP(tt)
Mặc dù những chương trình khác nhau sẽ có
những chức năng khác nhau, một số chương
trình cùng chia xẻ những đặc điểm chung như
sau:
· Sự tham gia là bắt buộc.
· Mức độ thích hợp cho việc tham gia và mức độ
lợi ích phụ thuộc một phần vào những đóng góp
trong quá khứ của người đó.
9.1. DẪN NHẬP(tt)
Vieäc chi traû phuùc lôïi baét ñaàu vôùi
nhöõng bieåu hieän coù theå nhaän thaáy
nhö thaát nghieäp, beänh taät, hay nghæ
höu.
Caùc chöông trình naøy khoâng laø phöông
thöùc kieåm tra taøi saûn hoaëc thu nhaäp –
khoâng nhaát thieát phaûi rôi vaøo tình
traïng tuùng quaãn veà taøi chính ñeå ñöôïc
nhaän lôïi ích cuûa chöông trình.
9.2. TẠI SAO CÓ BẢO HIỂM XÃ HỘI?
9.2.1 Sự Lựa Chọn Nghịch
Theo Định Lý Nền Tảng Của Kinh Tế Học Phúc
Lợi, các thị trường tư nhân thường cung ứng
hàng hoá với số lượng hiệu quả. Điều gì đặc biệt
về hàng hoá”Bảo hiểm”?.
Giả sử bạn muốn có bảo hiểm việc mất thu
nhập trong trường hợp bạn trở thành phế nhân
vì bệnh tật hay tuổi tác. Thực tế là các công ty
bảo hiểm tư nhân bán các hợp đồng cung cấp
một khoản trợ cấp hàng năm cố định trong
trường hợp người mua không đủ sức khỏe làm
việc.
9.2.1 Sự Lựa Chọn Nghịch(tt)
Tuy nhiên, những hợp đồng được gọi là trợ cấp
hàng năm như thế thường chỉ bán cho những
nhóm người tương đối lớn. Chủ doanh nghiệp có
nhiều nhân công có thể mua bảo hiểm tập thể
cho người lao động của họ, cũng như các công
đoàn làm cho những thành viên của mình.
Trong khi những cá nhân hay những nhóm cá
nhân tương đối nhỏ có thể mua trợ cấp hàng
năm, nhưng do chi phí cho việc này rất cao nên
rất ít bảo hiểm được bán theo cách này.
9.2.1 Sự Lựa Chọn Nghịch(tt)
Để hiểu tại sao, hãy nghiên cứu tình huống một
công ty bán trợ cấp hàng năm cho một nhóm
lớn mà trong đó có một số người có khả năng bị
đau tim và một số khác thì không.
Miễn là nhóm đó đủ lớn, công ty bảo hiểm có
thể đoán chính xác về số lượng đau tim sẽ xảy
ra, mặc dù công ty không biết chính xác ai sẽ là
nạn nhân. Khi đó, công ty bảo hiểm sẽ sử dụng
thông tin này để định giá cho trợ cấp hàng năm.
9.2.1 Sự Lựa Chọn Nghịch(tt)
Tình huống một công ty dự tính bán hợp đồng
như thế cho một cá nhân thì hoàn toàn khác.
Chúng ta có thể cho rằng một cá nhân sẽ có
nhu cầu cao về mua bảo hiểm nếu anh ta biết
rằng bản thân hoàn toàn có thể lấy được tiền
bảo hiểm, một hiện tượng được gọi là Sự Lựa
Chọn Nghịch.
9.2.2 Những lý giải khác
Có nhiều lý do khác thay cho Lựa Chọn Nghịch
có thể sử dụng để giải thích bản chất bắt buộc
của các chương trình An Sinh Xã Hội.
(1) CHỦ NGHĨA GIA TRƯỞNG
Những người có tính gia trưởng lập luận rằng
một số cá nhân không có tầm nhìn xa về tương
lai để mua đủ lượng bảo hiểm cần thiết cho bản
thân và do đó Chính phủ phải bắt họ mua bảo
hiểm.
(2) TI EÁT KIEÄM CHI PHÍ RA QUYEÁT ÑÒNH
Thị trường bảo hiểm và thị trường trợ cấp hàng năm
rất phức tạp, và có khả năng một cá nhân phải tốn
nhiều thời gian và nỗ lực để chọn một hợp đồng bảo
hiểm phù hợp. Nếu các nhà quyết định chính sách công
có thể lựa chọn một chương trình thích hợp cho mọi
người, các cá nhân không nhất thiết phải lãng phí
nguồn lực để tự ra quyết định.
(3) PHÂN PHỐI THU NHẬP
Chúng ta đã lưu ý trước đây rằng lợi ích của các
chương trình An Sinh Xã Hội được quyết định một
phần do những đóng góp trong quá khứ.
(3) PHAÂN PHOÁI THU NHAÄ(tt)P
Trong một chừng mực nhất định, khi đó các
chương trình An Sinh Xã Hội cũng là những
chương trình phân phối lại thu nhập.
Điều này giải thích tại sao những chương trình
này là bắt buộc tham gia. Nếu không, những
người bị xấu đi có thể chọn không tham gia
chương trình.
9.3. CẤU TRÚC CỦA CHƯƠNG TRÌNH AN
SINH XÃ HỘI
Chương trình An Sinh Xã Hội, với tên gọi chính thức là
Bảo hiểm Tuổi già, Người còn sống, và Người Tàn Tật
(OASDI – Old Age, Survivor, and Disability Insurance)
là chương trình chi tiêu trong nước lớn nhất tại Mỹ”.
Nói một cách vắn tắt, hệ thống làm việc như sau:
trong cuộc đời làm việc của mình, các thành viên
của chương trình và giới chủ của họ thực hiện
việc đóng góp thông qua một mức thuế tính trên
lương.
Khi nghỉ hưu, các thành viên sẽ được chi trả, một
phần là dựa trên đóng góp của họ.
9.3.1 Các Thành Phần Cơ Bản An Sinh
XH ở Mỹ
TIỀN TÀI TRỢ ĐƯỢC CUNG CẤP MỘT
PHẦN
Khi chương trình này ở Mỹ bắt đầu vào năm
1935, An Sinh Xã Hội nhìn chung rất giống với
một hệ thống bảo hiểm tư nhân. Trong cuộc đời
làm việc, cá nhân sẽ ký gởi một phần thu nhập
của họ vào một quỹ.
Qua thời gian, quỹ này sẽ tích lũy tiền lãi, và khi
về hưu, số tiền gốc và tiền lãi tích lũy sẽ được sử
dụng để chi trả phúc lợi. Cơ chế như thế được gọi
là tài trợ toàn phần. Kế hoạch này nhanh chóng
bị loại bỏ.
9.3.1 Các Thành Phần Cơ Bản(tt)
Vào năm 1939, hệ thống được chuyển sang
nguyên tắc”trả khi bạn đang làm việc” nghĩa là
phúc lợi chi trả cho người đang nghỉ hưu được
lấy từ những người đang làm việc.
Do kết quả của những sự thay đổi được thực
hiện vào năm 1983, hệ thống hiện nay đang tích
lũy một lượng lớn thặng dư trong Quỹ tín thác
ASXH.
Đối với người đang nghỉ hưu, hệ thống đó là”trả
khi bạn đang làm việc”. Số tiền chi trả được dựa
hầu như hoàn toàn vào số thuế mà người đang
làm việc đóng.
9.3.1 Các Thành Phần Cơ Bản(tt)
Đối với thế hệ nghỉ hưu tương lai, một số phúc
lợi sẽ được chi trả dựa trên những người đang
làm việc khi đó và một số từ quỹ đầu tư An Sinh
Xã Hội.
Với mong muốn có một tên gọi tốt hơn, hệ thống
này được gọi hệ thống tài trợ một phần.
CHUYEÅN NHÖÔÏNG HIEÅN NHIEÂN
Vào năm 1939, phúc lợi hàng tháng cho người sống
phụ thuộc và người người lao động ở Mỹ đã được
bảo hiểm. Vì vậy, ASXH không chỉ cung cấp bảo
hiểm mà nó còn chuyển nhượng thu nhập giữa các
cá nhân.
Tầm quan trọng của chức năng chuyển nhượng gia
tăng qua thời gian và đạt đỉnh điểm qua đạo luật
Bảo toàn thu nhập bổ sung (SSI) của Mỹ vào năm
1972.
Đó là một chương trình phúc lợi xã hội cung cấp thu
nhập tối thiểu bảo đảm của liên bang cho người già
và người tàn tật đã được đề cập ở phần trên.
CAÁ U TRUÙ C PHUÙ C LÔÏI
Phúc lợi An Sinh Xã Hội của một cá nhân phụ thuộc
vào lịch sử thu nhập, tuổi và hoàn cảnh cá nhân của
anh/chị ta.
Bước 1 là tính toán chỉ số trung bình thu nhập hàng
tháng (AIME). Chỉ số này biểu thị mức lương trung
bình của cá nhân khi đang làm việc có bảo hiểm
trong suốt cuộc đời làm việc của anh/chị ta.
Bước kế tiếp là thay AIME vào công thức tính phúc
lợi để tìm ra lượng bảo hiểm ban đầu (PIA) của cá
nhân đó, đây chính là phúc lợi cơ bản có thể trả cho
một cá nhân nghỉ hưu tại tuổi 65 hoặc người bị tàn
tật.
CAÁ U TRUÙ C PHUÙ C LÔÏ (tt)I
Thí dụ: Đối với một cá nhân đến tuổi 65 vào
năm 2001, chỉ số lượng bảo hiểm ban đầu sẽ
được tính toán như sau:
90% của 561 đô la đầu tiên của chỉ số trung
bình thu nhập hàng tháng, cộng
· 32% của chỉ số trung bình thu nhập hàng
tháng giữa 561 đô la và 3,381 đô la cộng
· 15% của chỉ số trung bình thu nhập hàng
tháng trên 3.381 đô la
CAÁ U TRUÙ C PHUÙ C LÔÏ (tt)I
Vì vậy, đối với một người nghỉ hưu có chỉ số
trung bình thu nhập hàng tháng là 200 đô la, chỉ
số lượng bảo hiểm ban đầu sẽ là 180 đô la,
Trong khi đối với một người nghỉ hưu có chỉ số
trung bình thu nhập hàng tháng là 1.600 đô la,
chỉ số lượng bảo hiểm ban đầu là 837 đô la.
Những người có chỉ số trung bình thu nhập hàng
tháng thấp được cho nhận phúc lợi chiếm tỉ trọng
cao trong thu nhập của họ hơn là những người có
chỉ số trung bình thu nhập hàng tháng cao
CAÁ U TRUÙ C PHUÙ C LÔÏ (tt)I
Thật vậy, đối với một người có thu nhập thấp
điển hình nghỉ hưu vào năm 2000 ở độ tuổi 65,
An Sinh Xã Hội thay thế khoảng 53% thu nhập;
người thu nhập trung bình, 39%, và người thu
nhập cao, 24%.
Phúc lợi thực tế của một cá nhân không chỉ tùy
thuộc vào chỉ số lượng bảo hiểm ban đầu mà
vào còn 2 yếu tố dưới đây:
CAÁ U TRUÙ C PHUÙ C LÔÏ (tt)I
Độ tuổi tại thời điểm nhận phúc lợi: Hiện tại, một
người làm việc có thể nghỉ hưu ở độ tuổi 62,
nhưng làm như thế sẽ giảm phúc lợi.
Ví dụ, một người làm việc nghỉ hưu ở độ tuổi 62
thay vì 65 sẽ nhận phúc lợi thấp hơn khoảng
20%.
Tình trạng gia đình của người nhận: Khi một cá
nhân làm việc được bảo hiểm đầy đủ nghỉ hưu ở
độ tuổi 65, phúc lợi thực hàng tháng đơn giản chỉ
là lượng bảo hiểm ban đầu.
CAÁ U TRUÙ C PHUÙ C LÔÏ (tt)I
Một người làm việc có 1 người vợ, chồng hoặc
con sống phụ thuộc sẽ được nhận thêm 50% chỉ
số lượng bảo hiểm ban đầu. Phúc lợi trung bình
hàng tháng cho một cặp vợ chồng nghỉ hưu là
xấp xỉ 1.400 đô la.
TAØI TRÔÏ
Thuế lương của một người làm việc là tỉ lệ phần
trăm phẳng tính trên tổng lương hàng năm đạt
đến một mức nhất định. Phân nửa sẽ được giới
chủ trả và phần còn lại là do người lao động trả.
Rõ ràng là mục đích pháp luật hướng đến việc
san sẻ chi phí bằng nhau giữa giới chủ và người
lao động. Tuy nhiên, giới chủ có thể”chuyển”
một phần hay tất cả phần của họ sang người lao
động dưới dạng một mức lương trước thuế thấp
hơn
Biểu 9.2: Mức thuế An Sinh Xã Hội
*(một số năm)
Năm Thu nhập tối đa bị đánh
thuế (đô la)
Giới chủ và nhân công, mỗi đối tượng chịu
(%)
1937 3000 1%
1950 3000 1,5
1960 4800 3
1970 7800 4,2
1980 29700 5,08
1990 51300 6,2
2001 80400 6,2
TAØI TRÔÏ(tt)
Khi phúc lợi gia tăng qua thời gian, mức thuế
lương cũng gia tăng. Mức thuế hiện tại là 6,2%
(cho mỗi người công nhân và giới chủ)
Mức thuế của Chăm sóc y tế hiện tại là 1,45%
cho cả người lao động và giới chủ. Vì thế, đối với
từng cá nhân có mức thu nhập dưới mức tối đa
bị đánh thuế An Sinh Xã Hội, sự kết hợp của
mức thuế lương cho cả An Sinh Xã Hội và
Chăm sóc y tế là 15,3 [= 2 x (6,2 +1,45)]%.
9.3.2 Các vấn đề phân phối
Mỗi cá nhân sẽ nhận một sự hoàn trả công bằng
có tính bảo hiểm – tính trung bình, lượng phúc
lợi nhận được sẽ bằng với số tiền bảo hiểm đóng
vô. Thật ra, một số người nhận được phúc lợi
cao hơn một số người khác
Giá trị của phúc lợi An Sinh Xã Hội tương lai là
phần tài sản quan trọng của một gia đình và
được gọi bằng cái tên Phúc lợi An Sinh Xã Hội.
9.3.2 Các vấn đề phân phối(tt)
Bước thứ hai trong việc tính toán lợi ích ròng là
tìm kì vọng của toàn bộ chi phí tham gia hệ
thống – thuế lương phải trả của một cá nhân.
Việc tính toán trong Biểu 9.3 là của 3 cá nhân
đại diện, người thu nhập thấp, người thu nhập
trung bình, và người thu nhập cao có mức lương
tối đa bị tính thuế An Sinh Xã Hội.
Biểu 9.3: Phúc lợi và chi phí ước lượng
của hệ thống An Sinh Xã Hội
Năm
nghỉ
hưu
Mức thu nhập
Người thu
nhập thấp
(đô la)
Người thu
nhập TB
(Đô la)
Người thu
nhập cao
(Đô la)
1980 Lợi ích An Sinh Xã
Hội
54300 90200 114600
Tổng thuế thu
nhập
22900 51000 71900
Lợi ích có được 31400 39200 42700
1995 Lợi ích An Sinh Xã
Hội
58000 96700 133600
Biểu 9.3: Phúc lợi và chi phí ước lượng
của hệ thống An Sinh Xã Hội
Tổng thuế thu
nhập
45400 100800 170700
Lợi ích có được 12600 -5100 -37100
2010 Phúc lợi An Sinh
Xã Hội
69000 115200 1759000
Tổng thuế thu
nhập
68200 151500 310800
Lợi ích có được 800 -36300 -134900
9.3.3 Tình trạng kinh tế của người già
Như chúng ta đã lưu ý trước đây, một trong
những mục tiêu chính của An Sinh Xã Hội là
duy trì thu nhập của người lớn tuổi. Hiện nay,
lợi ích An Sinh Xã Hội chiếm khoảng 31% tổng
thu nhập của hộ người lớn tuổi. Đối với người
già nghèo lớn tuổi, con số đó là 67%.
9.3.4. Các ảnh hưởng lên hành vi kinh tế
Một số nhà kinh tế lập luận rằng hệ thống An
Sinh Xã Hội bóp méo hành vi của con người và
tổn hại hiệu quả kinh tế. Hầu hết các cuộc thảo
luận tập trung vào hành vi tiết kiệm và quyết
định đi làm.
HAØNH VI TIEÁ T KIEÄM
Điểm xuất phát của hầu hết các nghiên cứu về An
Sinh Xã Hội và tiết kiệm là lý thuyết vòng đời về
tiết kiệm, trình bày quyết định tiêu dùng và tiết
kiệm của một cá nhân dựa trên việc xem xét toàn
bộ cuộc đời.
Trong cuộc đời làm việc của mình, các cá nhân
tiết kiệm một phần thu nhập để tích lũy và khi
nghỉ hưu họ có thể chi tiêu dựa trên số tiền này.
Những khoản tiền đó được đầu tư cho đến khi
chúng được dùng đến, do đó làm gia tăng vốn của
toàn xã hội.
HAØNH VI TIEÁ T KIEÄ (tt)M
Việc đưa ra hệ thống An Sinh Xã Hội có thể
thay đổi đáng kể lượng tiết kiệm cả đời. Những
thay đổi như thế là hệ quả của 3 hiệu ứng:
Thứ nhất, người làm việc nhận ra rằng để đổi lại
cho sự đóng góp của họ, họ sẽ nhận một khoản
thu nhập lương hưu bảo đảm. Nếu họ xem thuế
An Sinh Xã Hội như là một phương tiện tiết
kiệm cho lợi ích tương lai, tự họ sẽ có khuynh
hướng tiết kiệm ít hơn. Hiện tượng này được gọi
là hiệu ứng thay thế lợi ích.
HAØNH VI TIEÁ T KIEÄ (tt)M
Thứ hai, An Sinh Xã Hội có thể khiến người ta
nghỉ hưu sớm hơn họ dự định, bởi vì để nhận
được lợi ích, họ phải giảm sự tham gia của họ
trong lực lượng lao động.
Nếu thời gian nghỉ hưu gia tăng thì cá nhân sẽ
có nhiều năm nghỉ làm và có ít số năm để tích
lũy tài sản, tuy nhiên, việc chi tiêu cũng cần phải
được tài trợ trong thời gian nghỉ hưu. Hiệu ứng
nghỉ hưu này có khuynh hướng gia tăng tiết
kiệm.
HAØNH VI TIEÁ T KIEÄ (tt)M
Thứ ba, giả sử rằng có một lý do quan trọng để
tiết kiệm chính là để lại của cải cho đời sau - con
người muốn để lại của cải cho con cái họ.
Bây giờ, nhớ lại Biểu 9.3 trong đó hệ thống An
Sinh Xã Hội có khuynh hướng chuyển thu nhập
từ những người trẻ
Về cơ bản, con người gia tăng tiết kiệm để hủy
bỏ ảnh hưởng của An Sinh Xã Hội đối với thu
nhập của con cái họ. Điều này được biết đến
như hiệu ứng của thừa kế.
QUYEÁ T ÑÒNH NGHÆ HÖU
An Sinh Xã Hội cung cấp động cơ nghỉ hưu bán
thời gian hay toàn thời gian đối với người lớn
hơn 62 tuổi. 54% đàn ông trên 65 tuổi tham gia
lực lượng lao động vào năm 1930.
Ở năm 1950, tỉ lệ tham gia là 45,8%, và vào cuối
thập kỉ 1990, tỉ lệ này là 17%. Nhiều yếu tố có
tác động hiển nhiên đến hiện tượng này như: gia
tăng thu nhập, thay đổi tuổi thọ trung bình, và
tính chất công việc khác nhau.
QUYEÁ T ÑÒNH NGHÆ HÖ(tt)U
Chúng ta có thể biểu diễn động cơ nghỉ hưu
bằng một ví dụ số học như sau. Nghiên cứu ông
Costanza, một người có thu nhập trung bình
suốt cuộc đời và sẽ chuyển sang tuổi 65 vào năm
2000.
Costanza có thể nghỉ hưu tại tuổi 65 với phúc lợi
bằng xấp xỉ 39% tổng thu nhập trước nghỉ hưu.
QUYEÁ T ÑÒNH NGHÆ HÖ(tt)U
Nếu vợ ông ta không làm việc, Constanza sẽ
nhận lợi ích của người vợ bằng phân nửa của
ông ta, đem đến tổng lợi ích là 60% tổng thu
nhập trước đây.
Giả sử rằng thu nhập của Costanza bị đánh thuế
15%, nhưng lợi ích An Sinh Xã Hội không bị
tính thuế. Do mức thuế 15%, Constanza có thể
giữ lại 85 cents cho mỗi đô la kiếm được.
QUYEÁ T ÑÒNH NGHÆ HÖ(tt)U
Vì vậy, % thu nhập sau thuế bị thay thế bởi An
Sinh Xã Hội là 71% (= 60/85). Những gì
Constanza sẽ nhận nếu không làm việc chỉ là 25
xen (= 1,0 – 0,6-0,15) trên mỗi 1 đô la thu nhập
được tạo ra.
Vì vậy, An Sinh Xã Hội làm suy yếu động lực
tiếp tục làm việc sau tuổi 65.
QUYEÁ T ÑÒNH NGHÆ HÖ(tt)U
Một lý do nữa gây ra khó khăn cho việc ước
lượng tác động của ảnh hưởng đó là không
có”văn hoá nghỉ hưu” ở Mỹ trước khi có An
Sinh Xã Hội. Về cơ bản, người ta sẽ làm việc cho
đến chết.
Một cá nhân dễ dàng có cảm giác thoải mái nghỉ
hưu khi có sẵn mạng lưới những người cùng
nghỉ hưu khác cũng như các dịch vụ xã hội hỗ
trợ họ.
9.4. ÁP LỰC DÀI HẠN LÊN AN SINH XÃ HỘI
Hiện nay, thuế lương An Sinh Xã Hội vượt quá
lợi ích được chi trả, và người ta hi vọng là
thặng dư sẽ tiếp tục cho đến năm 2014 hay lâu
hơn. Thặng dư sẽ được đầu tư vào trái phiếu
của Chính phủ Mỹ và kí gởi trong quỹ đầu tư
An Sinh Xã Hội. Tuy nhiên, cuối cùng hệ
thống sẽ bắt đầu bị thâm hụt và đòi hỏi việc
bán trái phiếu phải giữ trong quỹ đầu tư.
9.4. ÁP LỰC DÀI HẠN LÊN AN SINH XÃ
HỘI(tt)
Một công thức đơn giản giúp làm sáng tỏ
nguồn gốc của vấn đề. Nếu Nb là số lượng
người nghỉ hưu và B là lợi ích của mỗi người,
khi đó tổng lợi ích là Nb x B.
Tổng số thuế mà người đang làm việc trả là
tích của mức thuế (t), số lượng người làm việc
(Nw) và lương trung bình có bảo hiểm của mỗi
công nhân (w): t x Nw x w.
9.4. ÁP LỰC DÀI HẠN LÊN AN SINH XÃ
HỘI(tt)
Khi đó, mức cân bằng giữa lợi ích nhận được và
thuế đóng góp đòi hỏi đẳng thức sau:
Nb x B = t x Nw x w
Sắp xếp lại phương trình cho ta đẳng thức
t = (Nb / Nw) x (B/w) (9.1)
Số hạng đầu tiên bên tay phải là hệ số phụ thuộc,
tỉ lệ của số lượng người nghỉ hưu trên số lượng
người đang làm việc. Hệ số thứ hai là hệ số thay
thế, tỉ lệ của lợi ích trung bình trên lương trung
bình
9.4. ÁP LỰC DÀI HẠN LÊN AN SINH XÃ
HỘI(tt)
Vấn đề dài hạn của hệ thống An Sinh Xã Hội
xuất phát từ sự việc Mỹ có dân số già, điều này
ngụ ý rằng tỉ lệ phụ thuộc sẽ gia tăng qua thời
gian.
Vào năm 2030 (Khi thế hệ bùng nổ trẻ em đến
tuổi nghỉ hưu bình thường), tỉ lệ này sẽ là 0,5 –
khoảng 2 người làm việc cung cấp cho 1 người
nghỉ hưu.
9.4. ÁP LỰC DÀI HẠN LÊN AN SINH XÃ
HỘI(tt)
Phương trình (9.1) chỉ ra rằng, khi tỉ lệ phụ thuộc
gia tăng, cách thức duy nhất để hệ thống trả khi
bạn sống duy trì cấu trúc lợi ích giống nhau đó là
gia tăng thuế lên người làm việc.
Ví dụ, mức thuế An Sinh Xã Hội kết hợp của cả
người làm việc – giới chủ 12,4% hiện nay sẽ phải
gia tăng lên xấp xỉ 20% vào năm 2030. Hoặc, lợi
ích phải giảm 1/3 nếu giữ cho mức thuế không gia
tăng. Nhiều quốc gia trên thế giới có cùng hoàn
cảnh như trên. Ở Canada, Úc, và hầu hết các
quốc gia ở Tây Âu, Mỹ Latin, và Châu Á đều có
tỉ lệ phụ thuộc gia tăng
9.5. ĐỔI MỚI AN SINH XÃ HỘI
Công chúng quan tâm nhiều đế vấn đề tài chính
của hệ thống An Sinh Xã Hội. Căn cứ hiện trạng
không bền vững qua thời gian, có nhiều cuộc
thảo luận rộng rãi về việc làm thế nào để thay
đổi. Chúng ta sẽ xem xét một số ý kiến sau đây.
Tư nhân hoá hệ thống
Trong những năm gần đây, cả những nhà làm
chính sách và các nhà khoa học đều quan tâm
nhiều đến khả năng tư nhân hoá hệ thống An
Sinh Xã Hội. Thuật ngữ tư nhân hoá ám chỉ đến
nhiều phương án có cùng điểm chung:
Sự đóng góp bắt buộc của người công nhân và
giới chủ được ghi nhận trong tài khoản của từng
người. Tại cuối đời làm việc, các cá nhân sẽ tài
trợ cho việc nghỉ hưu của họ bằng tiền tích lũy
trong tài khoản của mình.
Tư nhân hoá hệ thống(tt)
Hệ thống An Sinh Xã Hội tư nhân nổi tiếng là
của Chi-lê được thực hiện vào năm 1981. Hệ
thống ở Chi-lê có ba thành phần chính:
(1) Mỗi người làm việc được bả