1.1. TRIẾT HỌC LÀ GÌ? 
1.1.1. Triết học và đối tượng của triết học 
1.1.1.1. Khái niệm triết học 
Triết học xuất hiện cả ởphương Đông và phương Tây vào khoảng thếkỷthứVIII đến thế
kỷthứIII (TrCN)
(1)
. 
- Ởphương Đông: 
+ Trung Quốc: Người Trung quốc cổ đại quan niệm “ triết” chính là “ trí”, là cách thức và 
nghệthuật diễn giải, bắt bẻcó tính lý luận trong học thuật nhằm đạt tới chân lý tối cao. 
+ Theo người Ấn Độ: triết học được đọc là darshana, có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng mang 
hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm đểdẫn dắt con người đến với lẽphải. 
- Ởphương Tây, thuật ngữtriết học xuất hiện ởHy lạp được la tinh hoá là Philôsôphia - 
nghĩa là yêu mến, ngưỡng mộsựthông thái. Nhưvậy Philôsôphia vừa mang tính định hướng, vừa 
nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người 
Tóm lại: Dù ởphương Đông hay phương Tây, triết học được xem là hình thái cao nhất của 
tri thức, nhà triết học là nhà thông thái có khảnăng tiếp cận chân lý, nghĩa là có thểlàm sáng tỏ
bản chất của mọi vật.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 125 trang
125 trang | 
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1666 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng triết học mác - Lênin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI GIẢNG 
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN 
Biên soạn: NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN 
ĐỖ MINH SƠN 
 TRẦN THẢO NGUYÊN 
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội 
1 Chương 1: TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ 
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 
1.1. TRIẾT HỌC LÀ GÌ? 
1.1.1. Triết học và đối tượng của triết học 
1.1.1.1. Khái niệm triết học 
Triết học xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế 
kỷ thứ III (TrCN)(1). 
- Ở phương Đông: 
+ Trung Quốc: Người Trung quốc cổ đại quan niệm “ triết” chính là “ trí”, là cách thức và 
nghệ thuật diễn giải, bắt bẻ có tính lý luận trong học thuật nhằm đạt tới chân lý tối cao. 
+ Theo người Ấn Độ: triết học được đọc là darshana, có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng mang 
hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. 
- Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp được la tinh hoá là Philôsôphia - 
nghĩa là yêu mến, ngưỡng mộ sự thông thái. Như vậy Philôsôphia vừa mang tính định hướng, vừa 
nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người 
Tóm lại: Dù ở phương Đông hay phương Tây, triết học được xem là hình thái cao nhất của 
tri thức, nhà triết học là nhà thông thái có khả năng tiếp cận chân lý, nghĩa là có thể làm sáng tỏ 
bản chất của mọi vật. 
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng bao hàm những nội dung giống nhau, đó là: 
triết học nghiên cứu thế giới một cách chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận 
động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người, của con người trong cuộc sống cộng đồng 
nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý. 
Khái quát lại ta có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người 
về thế giới; về vị trí vai trò của con người trong thế giới đó. 
1.1.1.2. Nguồn gốc của triết học 
Triết học xuất hiện do hoạt động nhận thức của con người nhằm phục vụ nhu cầu cuộc sống, 
song với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học không thể xuất hiện cùng sự xuất 
hiện của xã hội loài người, mà chỉ xuất hiện khi có những điều kiện nhất định. 
- Nguồn gốc nhận thức: 
(1) TrCN: Trước Công nguyên 
 3
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội 
+ Đứng trước thế giới rộng lớn, bao la, các sự vật hiện tượng muôn hình muôn vẻ, con 
người có nhu cầu nhận thức thế giới bằng một loạt các câu hỏi cần giải đáp: thế giới ấy từ đâu mà 
ra?, nó tồn tại và phát triển như thế nào?, các sự vật ra đời, tồn tại và mất đi có tuân theo quy luật 
nào không? ... trả lời các câu hỏi ấy chính là triết học. 
+ Triết học là một hình thái ý thức xã hội có tính khái quát và tính trừu tượng cao, do đó, 
triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có trình độ tư duy trừu tượng hoá, khái quát hoá, hệ thống 
hoá để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận. 
- Nguồn gốc xã hội: 
 Lao động đã phát triển đến mức có sự phân công lao động thành lao động trí óc và lao động 
chân tay, xã hội phân chia thành hai giai cấp cơ bản đối lập nhau là giai cấp chủ nô và giai cấp nô 
lệ. Giai cấp thống trị có điều kiện nghiên cứu triết học. Bởi vậy ngay từ khi Triết học xuất hiện đã 
tự mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội 
nhất định. 
Những nguồn gốc trên có quan hệ mật thiết với nhau, mà sự phân chia chúng chỉ có tính 
chất tương đối. 
1.1.1.3. Đối tượng của Triết học; Sự biến đổi đối tượng triết học qua các giai đoạn lịch sử 
* Khi mới xuất hiện, Triết học Cổ đại còn được gọi là Triết học tự nhiên - bao hàm trong 
nó tri thức về tất cả các lĩnh vực, không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy 
sinh quan niệm sau này cho rằng Triết học là khoa học của mọi khoa học. 
* Thời kỳ Trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của giáo hội Thiên chúa bao trùm mọi lĩnh vực 
đời sống xã hội thì Triết học trở thành một bộ phận của thần học. Triết học chỉ có nhiệm vụ lý giải 
và chứng minh cho sự đúng đắn của nội dung trong kinh thánh. Triết học tự nhiên bị thay thế bởi 
nền Triết học kinh viện. 
* Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, để đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các bộ môn 
khoa học chuyên ngành có tính chất là khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là các khoa 
học độc lập. Triết học lúc này có tên gọi là Siêu hình học - Khoa học hậu vật lý. Đối tượng của 
Triết học thời kỳ này là nghiên cứu cái ẩn dấu, cái bản chất đằng sau các sự vật, hiện tượng “vật 
thể” có thể thực nghiệm được. 
+ Triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh 
chóng, đạt tới đỉnh cao mới với các đại biểu như Ph. Bây cơn, T.Hốpxơ (Anh), Diđrô, Hen Vêtiúyt 
(Pháp), Xpinôda (Hà Lan)... 
+ Mặt khác, tư duy Triết học cũng được phát triển trong các học thuyết duy tâm mà đỉnh 
cao là Triết học Hêghen. 
+ Song, cũng chính sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên ngành cũng từng 
bước làm phá sản tham vọng của Triết học muốn đóng vai trò “Khoa học của mọi khoa học”, mà 
Triết học Heghen là Triết học cuối cùng mang tham vọng đó. Heghen xem Triết học của mình là 
một hệ thống phổ biến của nhận thức, trong đó những ngành khoa học riêng biệt chỉ là những mắt 
khâu phụ thuộc vào Triết học. 
* Đầu thế kỷ 19, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, cùng với sự chuyển biến tính chất từ 
khoa học thực nghiệm sang khoa học lý thuyết là cơ sở khách quan cho triết học đoạn tuyệt triệt 
 4 
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội 
để với quan niệm “khoa học của mọi khoa học”. Triết học Mác - Triết học duy vật biện chứng ra 
đời thể hiện sự đoạn tuyệt đó. Triết học Mác xít xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp 
tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên 
cứu những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. 
* Do tính đặc thù của Triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra 
một hệ thống lý luận về chỉnh thể đó.Và điều đó chỉ thực hiện được bằng cách tổng kết toàn bộ 
lịch sử của khoa học, lịch sử của bản thân tư tưởng Triết học. Cho nên, vấn đề tư cách khoa học 
của Triết học và đối tượng của nó đã gây ra cuộc tranh luận kéo dài cho đến hiện nay. 
Tóm lại, cái chung trong các học thuyết Triết học từ cổ tới kim là nghiên cứu những vấn đề 
chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung, của 
tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh. 
1.1.2. Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan 
* Thế giới quan: Là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con 
người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới. 
*Thế giới quan là sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin: Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự 
hình thành thế giới quan; niềm tin định hướng cho hoạt động của con người, từ đó tri thức trở 
thành niềm tin, niềm tin phải trên cơ sở tri thức. 
* Các loại thế giới quan (phân chia theo sự phát triển): 
 +Thế giới quan huyền thoại: Là phương thức cảm nhận thế giới của người nguyên thuỷ, có 
đặc điểm là các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng, cái thật 
và cái ảo, cái thần và cái người hoà quyện vào nhau thể hiện quan niệm về thế giới. 
 + Thế giới quan tôn giáo: Niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ yếu, tín ngưỡng cao hơn lý trí, 
cái ảo lấn át cái thật, cái thần trội hơn cái người. 
+ Thế giới quan triết học diễn tả quan niệm dưới dạng hệ thống các phạm trù, qui luật đóng 
vai trò như những bậc thang trong quá trình nhận thức. Như vậy, Triết học được coi như trình độ 
tự giác trong quá trình hình thành phát triển của thế giới quan. Triết học là hạt nhân lý luận của 
thế giới quan, đóng vai trò định hướng, củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi 
cộng đồng trong lịch sử. 
1.2. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA 
DUY TÂM TRIẾT HỌC. 
1.2.1. Vấn đề cơ bản của triết học 
* Khái niệm vấn đề cơ bản của triết học: Triết học cũng như các khoa học khác phải giải 
quyết rất nhiều những vấn đề có liên quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng, là nền tảng 
và là điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của triết học. 
Ăngghen định nghĩa vấn đề cơ bản của triết học như sau: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi Triết 
học, đặc biệt là Triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”.1
1 Mác-Ăngghen toàn tập Nxb, Chính trị quốc gia, HN, 1995, t.21, tr.403 
 5
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội 
* Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: 
+ Mặt thứ nhất: Giữa tư duy và tồn tại thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết 
định cái nào? 
+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thể giới hay không? 
* Tại sao nó là vấn đề cơ bản của triết học: 
+ Trên thực tế những hiện tượng chúng ta gặp hàng ngày hoặc là hiện tượng vật chất tồn tại 
bên ngoài ý thức của chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại trong ý thức của chúng ta, 
không có bất kỳ hiện tượng nào nằm ngoài hai lĩnh vực ấy. 
+ Bất kỳ trường phái triết học nào cũng phải đề cập và giải quyết mối quan hệ giữa vật chất 
và ý thức, giữa tồn tại và tư duy. 
+ Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề đó quyết định sự hình thành thế giới quan và 
phương pháp luận của nhà nghiên cứu, xác định bản chất của các trường phái triết học đó, cụ thể: 
- Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ nhất để chúng ta biết được hệ thống triết học này, nhà 
triết học này là duy vật hay là duy tâm, họ là triết học nhất nguyên hay nhị nguyên. 
- Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ hai để chúng ta biết được nhà triết học đó theo thuyết 
khả tri hay bất khả tri. 
+ Đây là vấn đề chung, nó mãi mãi tồn tại cùng con người và xã hội loài người. 
1.2.2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm 
1.2.2.1. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm 
Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học thành hai 
trường phái lớn: 
+ Chủ nghĩa duy vật: Là những người cho rằng vật chất giới tự nhiên là cái có trước và 
quyết định ý thức của con người; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ 
nghĩa duy vật. 
+ Chủ nghĩa duy tâm: là những người cho rằng ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên; học 
thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm. 
* Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của nó 
 Ngay từ thời cổ đại, khi xuất hiện triết học thì đã phân chia ra chủ nghĩa duy vật và chủ 
nghĩa duy tâm. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa duy vật từ đó đến nay luôn gắn với lịch sử phát 
triển của khoa học và thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật đã trải qua nhiều hình thức khác nhau, nhưng 
đều có quan điểm thống nhất coi vật chất là cái có trước, quyết định ý thức, đều xuất phát từ bản 
thân thế giới để giải thích thế giới. Cụ thể: 
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác ngây thơ thời cổ đại: 
Là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại mang tính trực quan nên ngây 
thơ và chất phác, tuy còn nhiều hạn chế nhưng với nguyên tắc cơ bản là đúng. Trường phái này 
giải thích giới tự nhiên từ chính bản thân tự nhiên, không viện dẫn thần linh hay thượng đế. 
 6 
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội 
+ Chủ nghĩa duy vật máy móc siêu hình thế kỷ thứ XVII - XVIII. 
Là kết quả nhận thức của các nhà triết học từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Từ sự phát triển 
rực rỡ của cơ học khiến cho quan điểm xem xét thế giới theo kiểu máy móc chiếm vị trí thống trị 
và tác động mạnh mẽ đến các nhà duy vật. 
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng. 
Là kết quả nhận thức của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác. Mác, Ăngghen, Lênin đã kế thừa 
những tinh hoa của các học thuyết trước đó, đồng thời khắc phục những hạn chế, sai lầm của chủ 
nghĩa duy vật siêu hình, dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại đã sáng lập ra chủ nghĩa 
duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng của triết học Mác Lênin mang tính chất cách 
mạng triệt để và biện chứng khoa học, không chỉ phản ánh hiện thực đúng như bản thân nó mà 
còn là công cụ hữu ích giúp con người cải tạo hiện thực đó. 
* Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản của nó: 
+ Duy tâm chủ quan thừa nhận ý thức là tính thứ nhất, phủ nhận sự tồn tại khách quan của 
hiện thực. Mọi sự vật hiện tượng chỉ là phức hợp cảm giác của cá nhân, của chủ thể. 
+ Duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhưng đó là thứ tinh thần 
khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này thường 
mang tên gọi khác nhau như: ý niệm; tinh thần tuyệt đối; lý tính thế giới... 
Một hình thức biến tướng của chủ nghĩa duy tâm khách quan là chủ nghĩa duy tâm tôn giáo, 
với sự thừa nhận thượng đế; chúa trời sáng tạo thế giới. Tuy nhiên có sự khác nhau đó là, chủ nghĩa 
duy tâm tôn giáo thì lòng tin là cơ sở chủ yếu, đóng vai trò chủ đạo; còn chủ nghĩa duy tâm triết học 
lại là sản phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và lý trí. 
Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm: 
+Về phương diện nhận thức luận, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem xét 
phiến diện, tuyệt đối hoá, thần thánh hoá một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức 
mang tính biện chứng của con người. Ví dụ: khả năng sáng tạo đặc biệt của tư duy, tính vượt 
trước của ý thức đối với với hiện thực. 
+Về phương diện xã hội, sự tách rời giữa lao động trí óc với lao động chân tay, và địa vị 
thống trị của lao động trí óc đối với lao động chân tay trong các xã hội cũ đã tạo ra quan niệm về 
vai trò quyết định của các nhân tố tinh thần. Mặt khác, các giai cấp thống trị và lực lượng xã hội 
phản động ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho những quan điểm chính 
trị-xã hội của mình. 
* Triết học nhị nguyên: vật chất và ý thức song song tồn tại, không có cái nào có trước, cả 
hai đều là nguồn gốc tạo nên thế giới, triết học nhị nguyên có khuynh hướng điều hoà chủ nghĩa 
duy vật với chủ nghĩa duy tâm. Xét về thực chất, Triết học nhị nguyên thể hiện sự dao động ngả 
nghiêng, cuối cùng cũng rơi vào chủ nghĩa duy tâm. 
1.2.2.2. Thuyết khả tri; bất khả tri và hoài nghi luận 
- Giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản “con người có nhận thức được thế giới không?”: 
+ Thuyết khả tri( Thuyết có thể biết) là những nhà Triết học cả duy vật và duy tâm trả lời 
một cách khẳng định: Con người có khả năng nhận thức được thế giới 
 7
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội 
+Hoài nghi luận xuất hiện từ thời Cổ đại (từ chữ Hy Lạp skeptikos và skiptomai có nghĩa 
là tôi thẩm tra) mà đại biểu là Pirôn (nhà triết học Hy Lạp cổ đại). Họ là những người đã luận 
nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng 
con người không thể đạt tới chân lý khách quan. 
Hoài nghi luận thời Phục hưng lại có tác dụng quan trọng trong cuộc đấy tranh chống hệ tư 
tưởng Trung cổ và uy tín của Giáo hội thời trung cổ vì nó thừa nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh 
thánh và các tín điều tôn giáo. 
+Thuyết bất khả tri (thuyết không thể biết): là sự phát triển mặt tiêu cực của trào lưu hoài 
nghi luận. Theo thuyết này, con người không thể hiểu được thế giới hay ít ra là không thể nhận 
thức được bản chất của nó, hoặc có chăng chỉ là hiểu cái bề ngoài vì các hình ảnh về đối tượng do 
giác quan con người mang lại không bảo đảm tính chân thực, từ đó họ phủ nhận khả năng nhận 
thức của con người và các hình thức cơ bản của nó. 
 Đại biểu nổi tiếng nhất của “thuyết không thể biết” là Hium (nhà triết học Anh) và Cantơ 
(nhà triết học Đức). Theo Hium, chẳng những chúng ta không thể biết được sự vật là như thế nào, 
mà cũng không thể biết được sự vật đó có tồn tại hay không. Còn Cantơ thì thừa kế nhận có một thế 
giới sự vật tồn tại, ông gọi đó là “vật tự nó”; nhưng chúng ta không thể nhận thức được bản chất thế 
giới ấy mà chỉ là nhận thức những hiện tượng của nó mà thôi. 
Thuyết không thể biết đã bị Hêghen và Phoiơbắc phê phán gay gắt. Song, đúng như Ph. 
Ăngghen đã nhận xét, chính thực tiễn của con người đã bác bỏ thuyết không thể biết một cách 
triệt để nhất. “Sự bác bỏ một cách hết sức đanh thép những sự vặn vẹo triết học ấy, cũng như tất 
cả những triết học khác, là thực tiễn, chính là thực nghiệm và công nghiệp. Nếu chúng ta có thể 
chứng minh được tính chính xác của quan điểm của chúng ta về một hiện tượng tự nhiên nào đó, 
bằng cách tự chúng ta làm ra hiện tượng ấy, bằng cách tạo ra nó từ những điều kiện của nó, và 
hơn nữa, còn bắt nó phải phục vụ mục đích của chúng ta, thì sẽ không còn có cái “vật tự nó” 
không thể nắm được của Cantơ nữa”1. 
1.3. SIÊU HÌNH VÀ BIỆN CHỨNG 
 Trong lịch sử triết học không những có sự đối lập giữa CNDV và CNDT khi tìm hiểu bản 
chất của thế giới, mà đồng thời còn phải trả lời các câu hỏi: thế giới là bất động, đứng im hay là 
không ngừng vận động và phát triển? Các sự vật, hiện tượng của thế giới ở trạng thái cô lập, tách 
rời nhau hay có liên hệ với nhau, tác động qua lại và chuyển hoá lẫn nhau. 
Lịch sử đã biết đến hai quan điểm, hai cách xem xét nhìn nhận trái ngược nhau trong khi 
giải đáp những câu hỏi trên. Đó là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình 
1.3.1. Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng 
b. Phương pháp biện chứng a. Phương pháp siêu hình 
+ Thừa nhận đối tượng ở trạng thái cô 
lập, tách rời với các chỉnh thể khác và giữa 
các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt 
đối. 
+ Thừa nhận đối tượng qua các mối liên 
hệ của nó với các đối tượng khác và sự ảnh 
hưởng, ràng buộc lẫn nhau giữa chúng. 
1 C. Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà nội, 1995, t.21, tr 406 
 8 
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội 
+ Thừa nhận đối tượng ở trạng thái vận 
động biến đổi có khuynh hướng chung là phát 
triển, có sự thay đổi về chất, mà nguyên nhân 
của mọi sự biến đổi ấy là do nguồn gốc bên 
trong đối tượng. Đó là sự đấu tranh của các 
mặt đối lập. 
+ Thừa nhận đối tượng ở trạng thái tĩnh 
tại; nếu có biến đổi thì đấy chỉ là biến đổi về 
mặt số lượng, nguyên nhân của mọi sự biến 
đổi nằm ngoài đối tượng. 
- Phương pháp biện chứng không chỉ 
thấy những sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối 
quan hệ qua lại giữa chúng, không chỉ thấy 
sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự sinh 
thành và sự tiêu vong của sự vật. 
 - Phương pháp siêu hình chỉ nhìn thấy 
sự vật riêng biệt mà không thấy mối liên hệ 
qua lại giữa chúng; chỉ thấy sự tồn tại mà 
không thấy quá trình sự phát sinh và tiêu vong 
(Về bản chất là không hiểu được mối quan 
hệ giữa vận động và đứng im, hay đứng im 
chỉ là một hình thức vận động đặc biệt). 
 - Tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa 
trên những phản đề tuyệt đối không thể dung 
nhau được, họ nói có là có, không là không. 
Đối với họ, một sự vật hoặc tồn tại hoặc không 
tồn tại, một hiện tượng không thể vừa là chính 
nó lại vừa là cái khác, cái khẳng định và cái 
phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau, v.v 
 - Phương pháp biện chứng thể hiện tư 
duy mềm dẻo, linh hoạt trong sự phản ánh 
hiện thực, - Phương pháp biện chứng thừa 
nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên 
cạnh cái “ hoặc là.. hoặc là” còn có cái “vừa 
là... vừa là”; đối tượng hay chỉnh thể trong lúc 
tồn tại là nó thì cũng đồng thời bao hàm sự tồn 
tại không là nó; cái khẳng định và cái phủ định 
vừa loại trừ nhau vừa gắn bó nhau. Do đó, nó 
phản ánh hiện thực ngày càng chân thực chính 
xác, và nó trở thành công cụ hữu hiệu giúp con 
người nhận thức và cải tạo thế giới. 
Nguồn gốc của phương pháp siêu hình: 
Là bắt nguồn từ việc muốn nhận thức đối 
tượng, trước hết con người phải tách đối tượng 
ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở 
trạng thái không biến đổi trong một không 
gian và thời gian xác định. Tuy phương pháp 
đó là cần thiết và có tác dụng trong một phạm 
vi nhất định, nhưng thực tế thì hiện thực 
không rời rạc và ngưng đọng như phương 
pháp này quan niệm. 
Tóm lại, phương pháp siêu hình là phương pháp xem sét sự vật trong t