.1 Khái quát về những quan điểm ngoài (phi) Mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp
1.1.1 Quan điểm
Một trong những nội dung được coi là quan trọng nhất của CN Mác là lý luận về GC và đấu tranh GC. Vì nó vạch ra tính chất tất yếu của đấu tranh GC giữa TS và VS và tính tất yếu của chuyên chính VS. Các đại biểu tư tưởng của GC TS luôn luôn tìm mọi cách phủ nhận học thuyết GC và đấu tranh GC bằng phưong pháp này hay phương pháp khác, mức độ này hay mức độ kia. Chia thành hai khuynh hướng:
- Khuynh hướng 1: phủ nhận hoàn toàn học thuyết GC và đấu tranh GC của Mác. Họ cho rằng Mác quá nhấn mạnh đến sự đối lập giữa TS và VS và họ cho rằng quy luật ĐTGC không phải là quy luật phổ biến và do đó nó không thể áp dụng cho XH TBCN.
- Khuynh hướng 2: thừa nhận XH có sự phân chia GC nhưng lại bác bỏ quan niệm khoa học về GC của CN Mác. Khuynh hướng này lấy cơ sở sinh học để giải thích cho sự phân chia GC trong XH như dựa vào màu da, tố chất cấu trúc của cơ thể Cách giải thích như vậy là không khoa học.
5 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2049 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Vấn đề giai cấp, dân tộc, nhân lọai trong thời đại này nay và vận dụng vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề 5: VẤN ĐỀ GIAI CẤP, DÂN TỘC, NHÂN LỌAI TRONG THỜI ĐẠI NÀY NAY VÀ VẬN DỤNG VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CNXH Ở VIỆT NAM
1. GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
1.1 Khái quát về những quan điểm ngoài (phi) Mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp
1.1.1 Quan điểm
Một trong những nội dung được coi là quan trọng nhất của CN Mác là lý luận về GC và đấu tranh GC. Vì nó vạch ra tính chất tất yếu của đấu tranh GC giữa TS và VS và tính tất yếu của chuyên chính VS. Các đại biểu tư tưởng của GC TS luôn luôn tìm mọi cách phủ nhận học thuyết GC và đấu tranh GC bằng phưong pháp này hay phương pháp khác, mức độ này hay mức độ kia. Chia thành hai khuynh hướng:
- Khuynh hướng 1: phủ nhận hoàn toàn học thuyết GC và đấu tranh GC của Mác. Họ cho rằng Mác quá nhấn mạnh đến sự đối lập giữa TS và VS và họ cho rằng quy luật ĐTGC không phải là quy luật phổ biến và do đó nó không thể áp dụng cho XH TBCN.
- Khuynh hướng 2: thừa nhận XH có sự phân chia GC nhưng lại bác bỏ quan niệm khoa học về GC của CN Mác. Khuynh hướng này lấy cơ sở sinh học để giải thích cho sự phân chia GC trong XH như dựa vào màu da, tố chất cấu trúc của cơ thể… Cách giải thích như vậy là không khoa học.
1.1.2 Trong phong trào cộng sản của công nhân quốc tế luôn luôn xuất hiện 2 khuynh hướng tả và hữu về vấn đề ĐTGC
- Khuynh hướng hữu: muốn dùng các biện pháp cải lương để giải quyết >< GC. Cụ thể là biểu hiện của CN cải lượng là tư tưởng hòa hợp GC, hòa hợp quyền lợi GC và đặc biệt là họ đưa ra quan điểm điều hòa lợi ích của GC công nhân và GC TS để đối lập với học thuyết GC và ĐTGC của CN Mác.
- Khuynh hướng tả: được Lênin giải thích thực chất là đầu óc cách mạng tiểu TS, nó gần giống CN vô chính phủ. Đặc điểm của CN cơ hội tả khuynh là che giấu bản chất cơ hội dưới vỏ của cách mạng suông để lợi dụng tình cảm của quần chúng. Nó tỏ ra rất chủ quan trong việc đánh giá các sự kiện và đặc biệt muốn bỏ qua những bước quá độ, đẩy phong trào đấu tranh của GC công nhân đi đến chỗ phiêu lưu, bỏ qua những biện pháp mềm dẻo trong đấu tranh.
Nhận xét: bản thân CN cơ hội tả cũng như hữu hoàn toàn trái với quan điểm cơ bản của CN Mác. Nó là căn bệnh nguy hiểm không chỉ gây tổn thất nghiêm trọng cho một Đảng nào đó thậm chí nó còn gây tổn thất cho toàn bộ phong trào cộng sản của công nhân quốc tế nói chung.
1.1.3 Trong thời đại ngày nay, cuộc đấu tranh tư tưởng liên quan đến vấn đề GC và ĐTGC càng trở nên phức tạp do tình hình thế giới đương đại. LLSX của CNTB phát triển như vũ bão, Trong khi đó thì thực tế CNTB đã nhanh nhạy điều chỉnh các QHSX. Phúc lợi XH ở các nước TB rất cao. Ngày nay có rất nhiều những vấn đề tương đồng liên quan đến lợi ích chung của toàn cầu và đó không chỉ là những vấn đề riêng của từng quốc gia (loại trừ vũ khí hạt nhân, vấn đề sinh thái, bùng nổ dân số, dịch bệnh AIDS, khoảng cách về kinh tế giữa các nước giàu và nước nghèo ngày càng cao…) đã kéo các nước khác nhau về chính trị xích lại gần nhau hơn. Trước tình hình như vậy làm cho không ít người nghĩ rằng vấn đề GC và ĐTGC đã trở thành thứ yếu, không quan trọng do đó cuộc đấu tranh về tư tưởng giữa những người Mácxít và ngoài Mácxít ngày càng trở nên phức tạp.
1.4 Cuộc đấu tranh GC trên lĩnh vực tư tưởng ngày càng trở nên đặc biệt khó khăn khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ.
1.5 Ở nước ta thì những năm đầu của sự nghiệp đổi mới cũng có nhiều người cho rằng cần từ bỏ tư tưởng của CN Mác về GC và ĐTGC xuất phát từ những động cơ khác nhau:
- Có những người không hiểu thực chất của lý luận GC và ĐTGC. Chỉ căn cứ vào những hậu quả của thời kỳ Stalin, thời kỳ CM văn hóa ở Trung Quốc, cải cách ruộng đất ở VN…cho rằng thực chất của ĐTGC là không nhân đạo, là phi nhân tính.
- Do tiếp cận với CNTB một cách ko đầy đủ, choáng ngợp trước sự phát triển chưa từng thấy của CNTB) và cho rằng nên từ bỏ con đường XHCN đi theo con đường phát triển TBCN.
- Dựa vào thất bại của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu và những thất bại để thực hiện ý đồ chính trị phản động, để kiếm chác quyền lực chính trị cho cá nhân mình.
1.2 Quan niệm Mácxít về GC và ĐTGC
1.2.1 Khái niệm GC, nguồn gốc và kết cấu GC:
1.2.1.1 Khái niệm GC: theo quan điểm của Lênin thì GC có 4 đặc trưng (tiêu chuẩn) sau:
- Các GC là những tập đoàn người có địa vị khác nhau trong một hệ thống SX nhất định (quan trọng nhất để xác định sự khác biệt giữa con người với con người về mặt GC)
- Họ có quan hệ khác nhau về quyền sở hữu đối với TLSX (sự khác nhau cơ bản nhất).
- Các GC có vai trò khác nhau trong việc tổ chức lao động XH.
- Các GC có phương thức và quy mô thu nhập khác nhau về của cải XH.
1.2.1.2 Nguồn gốc của GC: theo quan điểm của Lênin GC có nguồn gốc từ nguyên nhân kinh tế mà trực tiếp là do xuất hiện của chế độ sở hữu tư nhân về TLSX (chế độ sở hữu thì có nhiều hình thức sở hữu khác nhau).
1.2.1.3 Kết cấu GC: mỗi một hình thái KT - XH có một kết cấu GC riêng và mỗi một kết cấu giai cấp trong xã hội đều có giai cấp cơ bản và không cơ bản.
- Giai cấp cơ bản: những GC xuất hiện và tồn tại gắn liền với phương thức sản xuất thống trị của XH.
- GC không cơ bản: là GC còn lại sinh ra và tồn tại không gắn với PTSX. Khi hình thái KT XH này được thay thế bằng hình thái KTXH khác thì kết cấu GC của nó cũng thay đổi. Nguyên nhân của sự thay đổi này là nằm trong sự thay đổi của phương thức sản xuất. Thực tế là có những giai cấp nằm trong phương thức SX A thì là GC cơ bản nhưng trong phương thức SX B thì nó là giai cấp không cơ bản. Trí thức không được gọi là GC mà là một tầng lớp trong XH do trí thức xuất thân từ những GC khác nhau trong XH và trí thức là lao động nhưng lao động không chủ yếu bằng tay chân mà bằng trí óc.
Ý nghĩa: Nghiên cứu kết cấu GC để các ĐCS hiểu được điạ vị, vai trò, thái độ chính trị của mỗi GC trong cuộc vận động của lịch sử diễn ra như thế nào để từ đó vạch ra đường lối, chiến lược sách lược trong việc liên minh GC. Ở VN là liên minh công nông và tầng lớp trí thức được coi là nền tảng bền vững cho XH.
1.2.1.4 Vấn đề xóa bỏ GC: GC là một hiện tượng lịch sử, ko tồn tại vĩnh viễn, đến một lúc nào đó GC sẽ bị xóa bỏ.
1.2.2 ĐTGC và vai trò ĐTGC trong XH có đối kháng GC
- Theo Lenin ĐTGC là cuộc ĐT giữa các GC mà lợi ích cơ bản đối lập nhau. Đó là đối kháng về quyền lợi giữa các GC áp bức, bóc lột và GC bị áp bức, bóc lột. Chính sự đối kháng đó là nguyên nhân của ĐTGC. Vì vậy, ĐTGC là hiện tượng tất yếu không thể tránh được trong các XH có áp bức GC.
- ĐTGC là một trong những động lực phát triển của XH có GC thể hiện ở chỗ thông qua ĐTGC thì sự xung đột giữa LLSX mới và QHSX lỗi thời, lạc hậu được giải quyết. Vì nhân tố quyết định sự phát triển của XH loài người xét tới cùng là hoạt động SX ra của cải vật chất. Ssong sự phát triển của SX phụ thuộc vào việc LLSX tiến bộ có gạt bỏ được các QHSX lỗi thời hay không.
- Trong cuộc ĐTGC của GC vô sản trong thời đại ngày nay cần tránh:
+ Sau khi GC công nhân và nhân dân lao động đã giành được chính quyền thì vấn đề ĐTGC vẫn tiếp diễn, thậm chí gay go hơn, phức tạp hơn và quyết liệt hơn.
+ Mục tiêu ĐTGC thay đổi từ giành chính quyền chuyển thành bảo vệ chính quyền. Hình thức ĐT cũng thay đổi trên mọi lĩnh vực như KT, XH, tư tưởng và văn hoá.Sử dụng nhiều hình thức ĐT mới bằng bạo lực, hòa bình, giáo dục, thuyết phục, hành chính, pháp chế, chính trị, quân sự, kinh tế, bằng cải tạo các QHXH cũ lỗi thời, xây dựng các QHXH mới đúng quy luật, bằng liên minh giữa GC công nhân, nhân dân lao động với những tầng lớp khác, bằng sử dụng GC tư sản để xây dựng CNXH.
- Trong cuộc ĐT của GC VS hiện nay cần chống 2 khuynh hướng sai lầm:
+ Chủ quan duy ý chí mà biểu hiện là coi nhẹ quy luật kinh tế khách quan trong đó tuyệt đối hóa ĐTGC nhất là tuyệt đối hóa một hình thức ĐTGC như tuyệt đối hóa ĐT chính trị hay tuyệt đối hóa ĐT kinh tế.
+ Cơ hội hữu khuynh mà biểu hiện của mơ hồ về ĐTGC, mất cảnh giác trước âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch với CNXH.
1.3 Vấn đề GC và ĐTGC trong thời kỳ quá độ lên XHCN ở VN: vận dụng lý luận GC & ĐTGC vào thực tế của XH Vn trong TKQĐ
1.3.1 Đặc điểm GC và quan hệ GC trong thời kỳ quá độ
- Trong thời ký quá độ lên XHCN ở nước ta, XH chúng ta vẫn tồn tại lâu dài các GC và vì vậy vẫn tồn tại mâu thuẫn GC. Trong XH ngoài GC công nhân, nông dân, tri thức, các tầng lớp nhân dân lao động khác mà còn có tầng lớp tư sản (tầng lớp TS có điều kiện phát triển trong kinh tế thị trường). Mâu thuẫn GC ở đây là mâu thuẫn về lợi ích giữa những người lao động làm thuê với tầng lớp tư sản. Và mâu thuẫn giữa sự phát triển theo con đường XHCN với khuynh hướng tự phát của thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Đây là mâu thuẫn trong quan hệ giữa GC công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản. Nếu xét về tính chất thi đó là mâu thuẫn giữa lao động và bóc lột lao động. Song trong điều kiện quá độ của nước ta, đó lại là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, mâu thuẫn ko đối kháng.
- Trong XH chúng ta hiện nay, lợi ích hợp pháp của các nhà tư sản căn bản là thống nhất với lợi ích chung của cộng đồng. Đây là mặt thống nhất giữa GC công nhân, nhân dân lao động và tầng lớp tư sản. Do đó qhệ giữa GC công nhân, nhân dân lao động và tầng lớp tư sản là quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh. Đấu tranh với khuynh hướng tiêu cực của tầng lớp tư sản cũng là để thực hiện sự hợp tác, đoàn kết, xây dựng XH dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Do 2 đặc điểm GC và qhệ GC nêu trên nên ở XH VN bây giờ không phải là lảng tránh vấn đề ĐTGC mà là nhận thức cho đúng về tính chất, nội dung, hình thức ĐTGC để xử lý cho đúng các qhệ GC trong XH VN.
1.3.2 Nội dung và hình thức ĐTGC trong thời kỳ quá độ lên XHCN ở VN
Do những biến động của thời đại và cuộc ĐTGC ở nước ta diễn ra phức tạp, trong XH có nảy nở khác nhau nhiều khuynh hướng ko đúng về GC &ĐTGC
- Khuynh hướng hữu khuynh: trong nhân dân và cả trong một bộ phận Đảng viên, biểu hiện là ngộ nhận rằng CNTB đã biến đổi về chất, ở nước ta không còn GC và ĐTGC. Vì vậy họ coi học thuyết GC và ĐTGC của Mác trở nên xa lạ, lỗi thời thậm chí có người còn nghĩ rằng học thuyết GC và ĐTGC dẫn đến sự chia rẽ, mất đoàn kết, mất ổn định XH và vì vậy nó cản trở qhệ quốc tế của chúng ta. Từ đó nó làm cho XH VN trở thành một XH bài ngoại, cô lập với nền văn minh bên ngoài.
- Khuynh hướng tả: đứng trước tình hình phức tạp trong nước và thế giới, đặc biệt là sự phân hóa giàu nghèo khi phát triển kinh tế nhiều thành phần thì nhiều người tỏ ra hoang mang, dao động, lo lắng và không muốn mở rộng quan hệ đối ngoại vì họ nghĩ rằng phải đóng cửa, bế quan tỏa cảng thì kẻ địch mới ko thể lợi dụng để tấn công được, những thói hư tật xấu của CNTB ko xâm nhập được.
Những sai lầm trên chứng tỏ những mơ hồ, ảo tưởng về vấn đề GC và ĐTGC; chứng tỏ sự bảo thủ, hẹp hòi, xơ cứng. Vì vậy gây trở ngại công cuộc mở cửa, hội nhập với đời sống kinh tế quốc tế. Để khắc phục những quan điểm hữu khuynh và tả khuynh nói trên thì đòi hỏi chúng ta phải nắm vững phương pháp BCDV để phân tích tình hình cụ thể của đất nước. Trước hết phải xác định thực chất ĐTGC của nước ta trong thời kỳ quá độ là đấu tranh giữa hai khuynh hướng
- Khuynh hướng tự giác theo định hướng XHCN.
- Khuynh hướng phát triển tự phát TBCN.
Sở dĩ xác định thực chất của ĐTGC ở nước ta có hai khuynh hướng trên là do chúng ta thực hiện quá độ lên XHCN bỏ qua chế độ TBCN chứ ko phải thực hiện thời kỳ quá độ từ TBCN lên XHCN. Trong quá trình đó nhất thiết phải phát triển nhiều thành phần kinh tế, trong đó có thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Với tính tất yếu như vậy thì đương nhiên nó phải nảy sinh mâu thuẫn khách quan giữa 2 khuynh hướng phát triển kinh tế. Sự phát triển được thực hiện tự giác nghĩa là có sự chủ động, có sự điều khiển, có mục đích và có YT theo định hướng XHCN. Nó mâu thuẫn gay gắt với khuynh hướng tự phát quay lại con đường TBCN – khuynh hướng này được các thế lực thù địch chống lại độc lập dân chủ của chúng ta lợi dụng, khuyền khích và ủng hộ. Cuộc ĐTGC ấy diễn ra từng ngày, từng giờ, trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, tư tưởng, trật tự an toàn XH…
Để đạt kết quả tốt trong cuộc đấu tranh chống khuynh hướng tự phát TBCN thì chúng ta cần phải chú ý những vấn đề sau
- Phải đấu tranh chống khuynh hướng và biểu hiện tiêu cực của tầng lớp tư sản như hoạt động đầu cơ, buôn lậu, làm ăn phi pháp, xâm phạm lợi ích chung của cộng đồng, dân tộc…
- Đấu tranh chống khuynh hướng tự phát TBCN của nền sản xuất nhỏ bằng nhiều biện pháp khác nhau để lôi kéo họ, tách họ ra khỏi khuynh hướng tự phát TBCN.
- Đấu tranh chống các thế lực thù địch với độc lập dân tộc và CNXH.
Nội dung chủ yếu của ĐTGC ở nước ta là là thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH - HĐH theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo kém phát triển. Về XH thì phải thực hiện công bằng XH, chống áp bức, bất công. Về tư tưởng thì phải đấu tranh, ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái. Cuối cùng là đấu tranh & làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc và CNXH.
2. QUAN HỆ GIAI CẤP VỚI DÂN TỘC VÀ NHÂN LOẠI TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY
2.1 Dân tộc và quan hệ giữa GC và dân tộc.
2.2 Nhân loại và qhệ giữa GC với nhân loại.
2.3 Vấn đề GC, dân tộc trong giai đoạn CMVN hiện nay: cần chú ý các nội dung
- Phải phát huy khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công – nông – trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN.
- Xây dựng nền KTTT định hướng XHCN.
- Mở rộng quan hệ quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền của đất nước.
- Xây dựng nền KT độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.