Trang
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 1
1. Hoàn cảnh ra đời 1
2. Vị trí, tính chất, con đường hình thành, nhiệm kì 3
2.1. Vị trí, tính chất 3
2.2. Con đường hình thành, nhiệm kì 4
3. Nhiệm vụ, quyền hạn 5
4. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước
với các cơ quan nhà nước khác 6
5. Nhận xét, đánh giá 8
KẾT LUẬN 8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 10
10 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 3619 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập Hiến pháp: Chế định chủ tịch nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 1
1. Hoàn cảnh ra đời 1
2. Vị trí, tính chất, con đường hình thành, nhiệm kì 3
2.1. Vị trí, tính chất 3
2.2. Con đường hình thành, nhiệm kì 4
3. Nhiệm vụ, quyền hạn 5
4. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước
với các cơ quan nhà nước khác 6
5. Nhận xét, đánh giá 8
KẾT LUẬN 8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 10
MỞ BÀI
Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị. Nhưng mỗi nước nguyên thủ quốc gia có tên gọi, vị trí , chức năng khác nhau tùy thuộc vào thể chế chính trị và cách tổ chức nhà nước đó. Ở nước ta, theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 thì nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước. Vị trí, tính chất, chức năng quyền hạn và mối quan hệ của thiết chế này đối với các cơ quan khác cũng khác nhau theo từng giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước. Trong từng hiến pháp có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng.
NỘI DUNG
Hoàn cảnh ra đời
Sau cách mạng tháng Tám, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời là nhà nước dân chủ nhân dân. Sau tám mươi năm tranh đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt bỏ chế độ vua quan. Nước nhà đã bước sang một quãng đường mới. Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Với bản Hiến pháp 1946, bộ máy nhà nước đã bước đầu được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền song vẫn còn mang nhiều cách tổ chức theo kiểu đại nghị , thể hiện ở Nghị viện nhân dân và chính phủ liên hiệp với sự đoàn kết rộng rãi ở các lực lượng, giai cấp, đảng phải. Sự ra đời của chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946 có thể nói bắt đầu từ chủ trương thành lập một chính phủ nhân dân cách mạng theo tinh thần đoàn kết rộng rãi tất cả các tầng lớp nhân dân.
Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội Khoá I, kì họp thứ 11 thông qua trong bối cảnh lịch sử Cách mạng Việt Nam chuyển sang thời kì mới. Nhà nước đứng trước hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Những quy định của Hiến pháp năm 1946 về tổ chức bộ máy Nhà nước là không còn phù hợp trong thời kì mới của Cách mạng Việt Nam. Cho nên, bản Hiến pháp mới, Hiến pháp năm 1959 đã được thông qua. Đây là bản Hiến pháp thể hiện sự vận dụng mạnh mẽ nguyên tắc tập quyền XHCN trong tổ chức bộ máy nhà nước, tất cả quyền lực tập trung vào Quốc hội. Trong bản Hiến pháp này, chế định nguyên thủ quốc gia vẫn là Chủ tịch nước, nhưng đã có những điểm thay đổi căn bản so với chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946. Hiến pháp năm 1959 ghi nhận chế định nguyên thủ quốc gia tại chương V, gồm 10 điều (từ Điều 61 đến Điều 70). Việc ghi nhận chế định Chủ tịch nước thành một chương riêng biệt trong Hiến pháp chứng tỏ Hiến pháp năm 1959 có sự đổi mới rõ rệt so với Hiến pháp năm 1946.
Vị trí, tính chất, con đường hình thành, nhiệm kì
Vị trí, tính chất
Theo điều 44 của Hiến pháp 1946 quy định: “ Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Phó chủ tịch và nội các ”. Như vậy, Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước đồng thời là người đứng đầu Chính phủ. Tính chất đứng đầu Nhà nước (nguyên thủ quốc gia) của Chủ tịch nước thể hiện ở chỗ: Chủ tịch nước thay mặt cho nước, giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, bổ nhiệm thủ tướng, Nội các, ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị, thưởng huy chương và bằng cấp danh dự, đặc xá, kí hiệp ước với các nước, phái đại biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước, tuyên chiến hay đình chiến.Vị trí đứng đầu Nhà nước này cũng giống như ở các nước dân chủ, là có sự phân công phối hợp giữa Nghị viện, Ban thường vụ và Chủ tịch nước. Chủ tịch nước Chủ toạ Hội đồng Chính phủ, cùng với Chính phủ ban hành các sắc lệnh quy định các chính sách thi hành các sắc lệnh quy định các chính sách thi hành các đạo luật và quyết định của Nghị viện.
Còn đối với Hiến pháp 1959, Chủ tịch nước được xác định là người đứng đầu nhà nước nhưng không còn là người đứng đầu Chính phủ như trong Hiến pháp 1946. Chủ tịch nước thay mặt Nhà nước thực hiện các chức năng thuộc về đối nội, đối ngoại (Điều 61 Hiến pháp 1959). Sự phân định chức năng nguyên thủ giữa Chủ tịch nước, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chuyển sang hướng mới. Mọi quyền hạn quan trong đều thuộc về Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chủ tịch nước chủ yếu thực hiện các công việc có tính đại diện cá nhân và tham gia nhất định vào các hoạt động của Nhà nước như lập pháp, thành lập các cơ quan Nhà nước, tặng thưởng huy chương, tuyên bố chiến tranh... nhưng đều dựa trên quy định của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Con đường hình thành, nhiệm kì
Hiến pháp năm 1946 quy định tại Điều 45: "Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong Nghị viện nhân dân và phải được hai phần ba tổng số nghị viên bỏ phiếu thuận. Nếu bỏ phiếu lần đầu mà không đủ số phiếu ấy, thì lần thứ nhì sẽ theo đa số tương đối .Chủ tịch nước Việt Nam được bầu trong thời hạn 5 năm và có thể được bầu lại. Trong vòng một tháng trước khi hết nhiệm kì của Chủ tịch, Ban thường vụ phải triệu tập Nghị viện để bầu Chủ tịch mới”.
Con đường hình thành của Chủ tịch nước theo Hiến pháp được quy định trong Điều 62 Hiến pháp năm 1959: “ Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bầu ra. Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ ba mươi lăm tuổi trở lên có quyền ứng cử Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhiệm kì của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa theo nhiệm kì của Quốc hội ”. Trong khi Hiến pháp năm 1946 không quy định số tuổi của Chủ tịch nước thì Hiến pháp năm 1959 lại giới hạn độ tuổi đó là từ ba mươi lăm tuổi trở lên mới có quyền ứng cử Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nhiệm vụ, quyền hạn
Theo Hiến pháp 1946, Chủ tịch nước có các thẩm quyền sau đây:
Thẩm quyền đối với quốc gia:
Thay mặt cho nước (Điểm a Điều 49); tổng chỉ huy quân đội và các lực lượng vũ trang (Điểm b Điều 49); tặng thưởng huy chương và các bằng cấp danh dự (Điểm e Điều 49); kí hiệp ước với các nước (Điểm h Điều 49); tuyên bố đình chiến hay tuyên chiến theo quy định của Nghị viện (Điểm k Điều 49).
Thẩm quyền đối với các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp:
- Đối với quyền lập pháp: Chủ tịch nước là thành viên của Nghị viện, có quyền ban bố các Đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị (Điểm đ Điều 49); có quyền yêu cầu Nghị viện về sự tín nhiệm Nội các; có quyền triệu tập phiên họp bất thường; và quyền phủ quyết tương đối các dự án luật ( có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại các đạo luật trước khi ban bố).
- Đối với quyền hành pháp: Chủ tịch nước là thành viên Chính phủ, trực tiếp điều hành Chính phủ bằng cách chủ toạ các phiên họp Chính phủ; Chủ tịch nước kí sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng Chính phủ, nhân viên Nội các và nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ (Điểm c Điều 49), các đại sứ (Điểm i Điều 49); kí các sắc lệnh của Chính phủ; yêu cầu Nghị viện thảo luận lại vấn đề tín nhiệm Nội các.
- Đối với quyền tư pháp: Chủ tịch nước có quyền đặc xá ( Điểm g Điều 49) và công bố đại xá.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1959, Chủ tịch nước chỉ đảm nhiệm chức năng nguyên thủ quốc gia trong lĩnh vực đối nội, đối ngoại. Quyền lực có nhiều thay đổi so với chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946 với mục đích đề cao vai trò tập thể nên đã chuyển một số quyền hạn của Chủ tịch nước được ghi nhận tại Hiến pháp năm 1946 sang cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội, bên cạnh đó lại quy định những quyền hạn khác của Chủ tịch nước mang tính chất thủ tục. Để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hiến pháp 1959 cũng quy định Chủ tịch nước, khi xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ (Điều 66) hoặc triệu tập và chủ tọa Hội nghị chính trị đặc biệt (Điều 67). Như vậy so với chế định Chủ tịch nước năm 1946, Chủ tịch nước theo quy định của Hiến pháp năm 1959 có những điểm khác biệt như: Thay quyền chỉ huy các lực lượng vũ trang bằng quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang. Thay quyền ban bố luật bằng quyền công bố luật, không còn quyền yêu cầu Quốc hội thảo luận lại luật, không còn quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh trong cơ quan Hành chính và chuyên môn, đồng thời Chủ tịch nước không còn quyền triệu tập, chủ toạ các phiên họp của Hội đồng Chính phủ trừ trường hợp cần thiết. Bên cạnh đó Chủ tịch nước còn phải chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội. Trước đây Chủ tịch nước chủ yếu sử dụng sắc lệnh, bây giờ phải dùng luật để điều hành đất nước. Một điểm khác trong chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 1959 đó là chế định về Phó Chủ tịch nước ( Điều 68, 69, 70 ). Điều đó cho thấy đã có sự phân chia nhiệm vụ giữa Chủ tịch nước và Phó Chủ tịch nước trong những trường hợp đặc biệt, ví dụ như “ Khi Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vì tình hình sức khỏe mà không làm việc được trong một thời gian dài thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch” ( Điều 70 ).
Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan Nhà nước khác
Theo Hiến pháp 1946, Chủ tịch nước có:
* Mối quan hệ với Nghị viện: Chủ tịch nước có những quyền hạn lớn đối với Nghị viện như: yêu cầu Nghị viện thảo luận lại những luật mà Chủ tịch nước không đồng ý (Điều 31); Chủ tịch nước không phải chịu một trách nhiệm nào trừ khi phản bội Tổ quốc (Điều 50). Tuy vậy Nghị viện cũng có khả năng hạn chế quyền của Chủ tịch nước, để đảm bảo cho Nghị viện là cơ quan có quyền cao nhất: Chủ tịch nước được Nghị viện chọn trong số các nghị viên và phải được hai phần ba tổng số nghị viên bỏ phiếu thuận, Chủ tịch nước có thể được bầu lại (Điều 45); Những luật mà Chủ tịch nước yêu cầu thảo luận lại nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch nước phải ban bố (Điều 31); Chủ tịch nước sẽ bị một tòa án đặc biệt của Nghị viện xét xử nếu phản bội Tổ quốc (Điều 51).
* Mối quan hệ với Chính phủ: Chủ tịch nước là người đứng đầu Chính phủ. Chủ tịch nước chọn Thủ tướng chính phủ trong Nghị viện; kí sắc lệnh bổ nhiệm Thứ trưởng và các nhân viên cao cấp khác thuộc cơ quan chính phủ (Điều 47, 48); mỗi sắc lệnh của Chính phủ phải có chữ kí của Chủ tịch nước, và phải có một hay nhiều Bộ trưởng thuộc lĩnh vực đó tiếp ký (Điều 53).
* Mối quan hệ với cơ quan tư pháp: Hiến pháp 1946 chưa quy định rõ về mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan tư pháp mà chỉ nói rằng các viên Thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm.
Theo Hiến pháp 1959, Chủ tịch nước có:
* Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội: Chủ tịch nước do Quốc hội bầu, (chọn trong công dân) với nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội (4 năm). Và khác với Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch nước phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Điều đó cho thấy ở Hiến pháp năm 1959, vị trí của Chủ tịch nước gắn bó với Quốc hội hơn so với Hiến pháp năm 1946, và điều này phù hợp hơn với nguyên tắc tổ chức bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
* Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Chính phủ: Chủ tịch nước vẫn có vai trò khá lớn đối với Hội đồng Chính phủ. Chủ tịch nước đề nghị Thủ tướng để Quốc hội quyết định, căn cứ vào quyết định của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ mà bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; khi cần thiết có quyền tham dự và chủ toạ các phiên họp của Hội đồng Chính phủ. Đây là những điểm kế thừa vị trí của Chủ tịch nước đối với Chính phủ ở Hiến pháp trước.
* Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Toà án, Viện kiểm sát: Cũng như Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 chưa có quy định rõ ràng về mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Toà án, cũng như quan hệ giữa Chủ tịch nước với Viện kiểm sát.Với việc quy định và ghi nhận chế định Chủ tịch nước, Hiến pháp 1959 thực sự là bản Hiến pháp được xây dựng theo mô hình Hiến pháp xã hội chủ nghĩa, thể hiện được bản chất Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân lao động, do dân và vì dân, quyền lực thuộc về nhân dân.
5. Nhận xét, đánh giá
Chế định Chủ tịch nước là một trong những chế định quan trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước ta. Trong Hiến pháp 1946 chế định chủ tịch nước được xây dựng một cách độc đáo, vừa đảm bảo quyền lực nhà nước thống nhất và cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân, vừa tăng cường hiệu quả hoạt động cho chính phủ, phù hợp với yêu cầu kháng chiến kiến quốc lúc bấy giờ. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà giống như nguyên thủ quốc gia của mô hình Cộng hoà đại nghị là không phải chịu trách nhiệm nào, trừ khi phản bội Tổ quốc. Tuy Chủ tịch nước được quy định thực hiện các quyền hạn lớn hơn cả về lập pháp lẫn hành pháp, song Hiến pháp cũng quy định những hạn chế đối với Chủ tịch nước, bảo đảm tính cơ quan có quyền lực cao nhất của Nghị viện. Đó là Nghị viện bầu ra Chủ tịch nước trong số nghị sĩ, chuẩn y các hiệp ước do Chính phủ kí với nước ngoài. Những luật mà Chủ tịch nước yêu cầu thảo luận lại nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch nước phải ban bố. Khi Nghị viện không họp được, Ban thường vụ cùng với Chính phủ quyết định nên tuyên chiến hay đình chiến, Chủ tịch nước tuyên chiến hay đình chiến theo quyết định đó. Và đặc biệt, Nghị viện nhân dân không bị giải tán (như ở các nước tư bản). Còn trong Hiến pháp 1959, Chủ tịch nước lúc này là khâu phối hợp giữa quốc hội và Chính phủ, đây chính là sự phát triển trong chế định chủ tịch nước theo Hiến pháp 1959 so với Hiến pháp 1946, sự phát triển này là phù hợp với việc bộ máy nhà nước ta giai đoạn đó đã chuyển sang chế độ Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, chủ tịch nước vẫn còn nghiêng nhiều về Chính phủ, đây chính là điểm kế thừa vị trí của chủ tịch nước đối với chính phủ của Hiến pháp trước.
KẾT LUẬN
Lịch sử lập hiến Việt Nam đã để lại nhiều bài học quý báu trong việc tổ chức bộ máy Nhà nước, trong đó có chế định Chủ tịch nước (nguyên thủ quốc gia). Việc so sánh chế định Chủ tịch nước qua hai bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 đã cho chúng ta thấy việc đề cao chế độ cá nhân của Chủ tịch nước nhưng vẫn nghiêng về chính phủ. Nhưng so sánh với Hiến pháp năm 1946 thì Hiến pháp năm 1959 có sự kế thừa và phát triển hơn. Quyền lực không tập trung hết trong tay Chủ tịch nước (cũng là Chính phủ) mà Chủ tịch nước được tách ra thành một thiết chế độc lập. Vấn đề đặt ra là sự nghiên cứu toàn diện đi từng bước vững chắc, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để cụ thể hoá dần dần các quy định của Hiến pháp và pháp luật, làm cho thể chế Chủ tịch nước ngày càng phát huy được vai trò, vị trí, chức năng quan trọng của mình trong bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam – Trường Đại học Luật Hà Nội – NXB Tư pháp.
Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992 – NXB Lao động xã hội.
Tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam qua các bản Hiến pháp - PGS.TS Nguyễn Đăng Dung - Nxb Tư pháp, Hà Nội 2007.
Hiến pháp 1946 sự kế thừa và phát triển - Nxb Tư pháp.