Bài thảo luận Sự phát triển của thị trường trái phiếu Việt Nam giai đoạn 2006 đến nay

Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn. 2. Đặc điểm: a. Một trái phiếu thông thường có ba đặc trưng chính: + Mệnh giá. + Lãi suất định kỳ (coupon) + Thời hạn. b. Trái phiếu thể hiện quan hệ chủ nợ – con nợ giữa người phát hành và người đầu tư . Phát hành trái phiếu là đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành vay vốn và như vậy, trái chủ là chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ, người nắm giữ trái phiếu (trái chủ) có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn, song không có quyền tham gia vào những vấn đề của bên phát hành. II. Cổ phiếu 1. Khái niệm Khi một công ty gọi vốn, số vốn cần gọi đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu và chỉ có công ty cổ phần mới phát hành cổ phiếu. Như vậy, cổ 4 phiếu chính là một chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công ty cổ phần và cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Thông thường hiện nay các công ty cổ phần thường phát hành 02 dạng cổ phiếu: Cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.

pdf13 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1972 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài thảo luận Sự phát triển của thị trường trái phiếu Việt Nam giai đoạn 2006 đến nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG MÔN HỌC: Thị trường chứng khoán BÀI THẢO LUẬN Sự phát triển của thị trường trái phiếu Việt Nam giai đoạn 2006 đến nay * * * * * Nhóm thực hiện: NHC – K11 Hà Nội, ngày 14 – 3 – 2011 2 MỤC LỤC: A. Giới thiệu về trái phiếu và cổ phiếu 3 B. Thị trường trái phiếu từ 2006 đến nay 4 I. Giai đoạn cuối năm 2006 đến giữa năm 2007 4 II. Giai đoạn cuối năm 2007 đến cuối năm 2008 6 III. Giai đoạn hiện nay 8 C. Tổng kết 9 3 Lời nói đầu Trái phiếu, một trong những công cụ huy động vốn hiệu quả nhất trên thị trường tài chính đang trở thành 1 trong những công cụ quan trọng tạo điều kiện cho sự phát triển của không chỉ một công ty, một tập đoàn mà của vô số các quốc gia, các tập đoàn, tổ chức tín dụng trên thế giới. Trên thị trường Việt Nam, tuy mới chỉ bắt đầu phát triển trong những năm gần đây,trái phiếu đã cho thấy tốc độ tăng trưởng đáng kinh ngạc của nó và trở thành kênh huy động vốn hàng đầu đối với nền tài chính quốc gia Chủ đề thảo luận xoay quanh quá trình phát triển của thị trường trái phiếu Việt Nam nhìn dưới 1 góc độ hoàn toàn khách quan sẽ giúp thấy được các giai đoạn thăng trầm, những khó khăn,thuận lợi và thậm chí cả những nguyên nhân ảnh hưởng đến nó trong thời gian gần đây. Qua đó mang đến cho người đọc những hiểu biết, nhận định về công cụ tài chính đắc lực này A. Giới thiệu về trái phiếu và cổ phiếu I. Trái phiếu 1. Khái niệm: Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn. 2. Đặc điểm: a. Một trái phiếu thông thường có ba đặc trưng chính: + Mệnh giá. + Lãi suất định kỳ (coupon) + Thời hạn. b. Trái phiếu thể hiện quan hệ chủ nợ – con nợ giữa người phát hành và người đầu tư . Phát hành trái phiếu là đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành vay vốn và như vậy, trái chủ là chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ, người nắm giữ trái phiếu (trái chủ) có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn, song không có quyền tham gia vào những vấn đề của bên phát hành. II. Cổ phiếu 1. Khái niệm Khi một công ty gọi vốn, số vốn cần gọi đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu và chỉ có công ty cổ phần mới phát hành cổ phiếu. Như vậy, cổ 4 phiếu chính là một chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công ty cổ phần và cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Thông thường hiện nay các công ty cổ phần thường phát hành 02 dạng cổ phiếu: Cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. 2. Đặc điểm Các cổ đông sở hữu cổ phiếu thông thường có quyền hạn và trách nhiệm đối với công ty như: Được chia cổ tức theo kết quả kinh doanh; Được quyền bầu cử, ứng cử vào bộ máy quản trị và kiểm soát công ty; Và phải chịu trách nhiệm về sự thua lỗ hoặc phá sản tương ứng với phần vốn góp của mình. Các cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi cũng là hình thức đầu tư vốn cổ phần như cổ phiếu thông thường nhưng quyền hạn và trách nhiệm hạn chế như: lợi tức cố định; không có quyền bầu cử, ứng cử..v.v. B. Thị trường trái phiếu từ 2006 đến nay I. Giai đoạn cuối năm 2006 đến giữa năm 2007 *Trái phiếu chính phủ Đây là 1 giai đoạn khá thuận lợi cho sự phát triền của thị trường trái phiếu Việt Nam. Trước thời cơ gia nhập WTO ngày 7/11/2006, bên cạnh những thách thức trước mắt như cạnh tranh quốc tế hay những ràng buộc về pháp lí, thị trường trái phiếu Việt Nam cũng đón nhận vô vàn những cơ hội để có thể huy động những nguồn vốn lớn với chi phí rẻ hơn. - Ngày 20/6/2006, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký Quyết định số 2276/2006/QĐ-BTC về việc tập trung đấu thầu trái phiếu chính phủ tại HASTC. Như vậy đây là 1 trong những quyết định rất quan trọng,đặt nền móng cho sự phát triển của kênh huy động vốn thống qua trái phiếu tại thị trường Việt Nam. + Chỉ tính riêng trái phiếu chính phủ do Kho bạc Nhà nước phát hành, năm 2006 và 6 tháng đầu năm 2007 thông qua gần 30 phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ tại HASTC, đã huy động được 12.695 tỷ đồng cho ngân sách Nhà nước. + Trong đó, lãi suất trúng thầu có xu hướng giảm dần từ mức bình quân 8,75%/năm vào đầu năm 2006 xuống 7,00%/năm trong một số phiên vào tháng 8/2007 làm giảm đáng kể gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển, góp phần bình ổn lãi suất cho vay của ngân hàng, từ đó góp phần bình ổn kinh tế vĩ mô + Ngoài ra, hoạt động đấu thầu trái phiếu chính phủ theo lô lớn lần đầu tiên được thực hiện thí điểm thành công, mở ra một triển vọng mới về nâng cao chất lượng phát hành và giao dịch trái phiếu chính phủ trong thời gian tới. Ví dụ: Qua 4 phiên thí điểm phát hành trái phiếu lô lớn theo Quyết định 46/2006/QĐ-BTC ban hành ngày 6/9/2006 của Bộ Tài chính, với tổng khối lượng gọi thầu 1.600 tỷ đồng, với mức lãi suất bình quân 7,13%/năm. 5 - Năm 2007,sau một năm thực hiện Quyết định 2276/QĐ-BTC đã cho thấy hiệu quả của việc tổ chức đấu thầu trái phiếu chính phủ tại HASTC. + Đó là tỷ lệ thành công của các phiên đấu thầu ngày càng cao và lãi suất huy động ngày càng giảm. + Ngoài ra, tính cạnh tranh của thị trường đấu thầu trái phiếu ngày càng thể hiện rõ nét với sự tăng mạnh của số lượng và chất lượng thành viên đấu thầu. Tính đến năm 2007, HASTC đã kết nạp 52 thành viên đấu thầu, trong đó có 20 công ty chứng khoán, 13 ngân hàng thương mại trong nước, 7 ngân hàng thương mại nước ngoài và 12 tổ chức tài chính khác. Các ngân hàng nước ngoài có uy tín như Citibank, HSBC, Standardered Charted Bank cũng đăng ký là đặc biệt đã tham gia đấu thầu trái phiếu tại HASTC. - Đặc biệt, tính hiệu quả của hoạt động đấu thầu trái phiếu chính phủ góp phần quan trọng để phát triển hoạt động giao dịch thứ cấp, tạo tiền đề hình thành một thị trường trái phiếu chuyên biệt theo chỉ đạo của Bộ Tài chính. Nguyên nhân chính của sự hoạt động hiệu quả của việc đấu thầu: - Hoạt động đấu thầu được thực hiện trên thị trường HASTC, nhiều nhà đầu tư có khả năng tiếp cận được trái phiếu hơn. - Nhiều nhà đầu tư ưa thích sự an toàn hơn. - Ngày 15/3/2007, tập đoàn định mức tín nhiệm Moody’s của Mỹ đã nâng mức tín nhiệm đối với trái phiếu chính phủ Việt Nam từ ổn định lên tích cực trong bậc xếp hạng Ba3 hiện có. Theo Moody's, mức trần đánh giá của trái phiếu giao dịch bằng ngoại tệ vẫn đứng ở mức Ba2, với triển vọng "ổn định". Mức trần đánh giá của tiền gửi chính phủ bằng ngoại tệ tăng từ "ổn định" lên "tích cực" trong bậc xếp hạng B1 hiện có. Mức trần đánh giá của trái phiếu Chính phủ giao dịch bằng nội tệ vẫn đứng ở mức Ba1. (Nguồn saga.vn) Hạn chế - Năm 2006, kế hoạch phát hành đề ra là 15.500 tỷ đồng nhưng cả năm chỉ thực hiện được khoảng 10.500 tỷ đồng bằng 68% - Lãi suất trần thấp nên một số phiên đấu thầu đã không huy động đủ 100% khối lượng gọi thầu. - Sự đơn điệu về kỳ hạn trái phiếu đã không đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các nhà đầu tư trái phiếu trong thời gian qua.Chủ yếu là kỳ hạn 5 năm, các loại kỳ hạn khác như (2 năm; 3 năm; 7 năm; 10 năm và 15 năm...) chưa được duy trì đều đặn.  Kết luận: TPCP tương đối phát triển nhưng vẫn còn 1 số hạn chế cần phải khắc phục. * Trái phiếu Doanh nghiệp: 19/05/2006, chính phủ ban hành Nghị định 52/2006/NĐ-CP. Theo đó, chủ thể phát hành trái phiếu có thể là các công ty TNHH, công ty cổ phần và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 6 Số lượng doanh nghiệp và Cơ cấu trái phiếu doanh nghiệp trong thị trường trái phiếu Việt Nam vẫn còn hạn chế: Cho tới 2007, mới chỉ có 10 doanh nghiệp phát hành trái phiếu, gồm có: PetroVietnam,Tổng công ty cao su, Vinashin, Electric Vietnam Copreration (EVN), Lilama, Vietnam Steel Corperation, Vilexim, Tổng Công ty cổ phần xây dựng điện Việt nam, Tổng công ty Sông Đà và Vinaconex. Tất cả các công ty này đều là những đơn vị đầu ngành hoặc các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa. Doanh số phát hành: Dư nợ trái phiếu doanh nghiệp/GDP mới chiếm khoảng 2%. Nhưng Doanh số từ phát hành trái phiếu có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Từ 300 tỷ VND do Tổng công ty Dầu khí phát hành năm 2003 đã lên đến hơn 6.600 tỷ VND tháng 3 năm 2007, đặc biệt năm 2006 đạt hơn 8.800 tỷ VND, trong đó EVN phát hành 6 đợt với tổng doanh số là 6.000 tỷ VND. Tổng doanh số phát hành trái phiếu từ năm 2003 đến tháng 3 năm 2007 đạt 16.768 tỷ VND. Kỳ hạn: Hầu hết các trái phiếu được phát hành đều có kỳ hạn dài, ngắn nhất là 2 năm, dài nhất là 10 năm. Tuy nhiên, ở Việt Nam, trong điều kiện lạm phát cao, môi trường chính sách không đảm bảo và do tác động khá nhạy cảm của các biến động kinh tế quốc tế đã gây nên tâm lý thiếu tin tưởng của các nhà đầu tư khi đầu tư vào một loại trái phiếu có thời hạn quá dài. Lãi suất: Lãi suất trái phiếu vẫn thấp hơn so với lãi suất vay ngân hàng. Thực ra, đây chỉ là lãi suất danh nghĩa, không phải lãi suất thực, trong bối cảnh lạm phát tăng, lãi suất thực có xu hướng xuống dưới mức 0%. Điều này có thể giải thích tại sao các nhà đầu tư tỏ ra thờ ơ với việc đầu tư vào trái phiếu. II. Giai đoạn cuối năm 2007 đến cuối năm 2008 *Trái phiếu chính phủ Trong bối cảnh nền kinh tế Thế giới đang đứng trước cuộc khủng hoảng trầm trọng bắt nguồn từ bong bóng bất động sàn nhà đất tại Mỹ,kênh huy động vốn từ trái phiếu trên thị trường Việt Nam bắt gặp những khó khăn bởi sự thoái lui đầu tư mạnh mẽ diễn ra từ cả nhà đầu tư trong nước lẫn nhà đầu tư nước ngoài. Khối lượng TPCP phát hành thành công giảm một cách đáng kể. Việc đấu thầu không thành công đã làm cho các đợt phát hành TPCP không phát hành được. Năm 2008 HaSTC đã tổ chức được 44 đợt đấu thầu trái phiếu, huy động được 7.008 tỷ đồng trên tổng số 31.700 tỷ đồng gọi thầu như vậy tỷ lệ vốn huy động được chỉ bằng 22.1% kế hoạch và bằng 36.9% tổng huy động vốn năm 2007. Tuy nhiên, với quyết định nâng mức tín nhiệm đối với Biểu đồ: Khối lượng TPCP phát hành theo các quý niên độ 2007 - 2008 7 trái phiếu chính phủ Việt Nam từ ổn định lên tích cực trong bậc xếp hạng Ba3 hiện có của tập đoàn định mức tín nhiệm Moody’s ngày 15/03/2007, sau một độ trễ nhất định, các nhà đầu tư thế giới đã để mắt hơn đến lượng trái phiếu này. Kết quả là, tính đến 30/04/2008, TPCP do KBNN phát hành theo phương thức bảo lãnh phát hành đạt giá trị khoảng 52.816 tỷ và TPCP do NHPT Việt Nam phát hành qua bảo lãnh đạt giá trị khoảng 61.019 tỷ. Về thành viên tham gia, có 46 thành viên bảo lãnh phát hành TPCP, trong đó có 24 thành viên là NHTM. Với lợi thế về đặc trưng của phương thức bảo lãnh phát hành, lãi suất trái phiếu được hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa tổ chức phát hành và tổ chức bảo lãnh phát hành, thành viên bảo lãnh chủ động trong việc quyết định đầu tư cộng với việc nâng hạng mức tín nhiệm của Moody’s đã thu hút các nhà đầu tư lớn tham gia bảo lãnh phát hành dẫn đến kết quả phát hành đạt 100%. Về khối lượng và giá trị giao dịch, tính đến 31/12/2008, tổng khối lượng giao dịch đạt 1.992,4 triệu trái phiếu, với giá trị 189.108,4 tỷ đồng, gấp 2.427 lần so với tổng giá trị giao dịch trái phiếu của cả năm 2007. Giá trị giao dịch bình quân phiên đạt 762,5 tỷ đồng.  Kết luận - Xét theo tỷ trọng, tỷ lệ tiết kiệm trên GDP của Chính phủ chỉ khoảng 2-3% GDP, do ngân sách nhà nước liên tục thâm hụt xấp xỉ 5% GDP. Trong khi đó, tỷ lệ đầu tư của Chính phủ so với GDP tăng nhanh, hiện đạt 12% GDP, chứng tỏ Chính phủ dựa chủ yếu vào nguồn vay nợ để tài trợ hoạt động đầu tư (vốn ODA chiếm khoảng 33,4% tổng đầu tư khu vực nhà nước). Mặc dù được Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá nợ nước ngoài của Việt Nam nằm trong giới hạn an toàn, nhưng về xu hướng, nguồn vốn này đang tăng nhanh. Bên cạnh đó, từ năm 2010 trở đi, các nguồn vốn ODA có điều kiện ưu đãi sẽ giảm đi, thay vào đó là các điều kiện vay gần với các khoản vay thương mại. Do đó, Chính phủ Việt Nam sẽ phải hướng tới các nguồn tài trợ mới với quy mô lớn, trong đó phải kể đến kênh vay nợ thông qua phát hành trái phiếu. - Trong khi đó, dự báo tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam trong vòng 10 năm tới tương đối cao. Nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế để đáp ứng tốc độ tăng trưởng này cần được duy trì ít nhất tương đương với giai đoạn trước, vào khoảng 40% GDP.Tính tới cuối năm 2008, tổng dư nợ trái phiếu của Việt Nam tương đương 14,2% GDP, trong khi tỷ lệ này ở các nước trong khu vực luôn ở mức cao, như Singapore 66,8%, Thái Lan 52,4%, Philippines 34,2%... Trong đó, trái phiếu chính phủ (TPCP) chiếm tỷ trọng chủ yếu, trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) chiếm tỷ trọng khá nhỏ, năm 2008 chỉ là 5,84% (ở Malayssia, Singapore, tỷ trọng này khoảng 70 - 80%). Như vậy, xét về nhu cầu và xu hướng, thị trường trái phiếu Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng để phát triển. *Trái phiếu doanh nghiệp: Thời gian này, thị trường trái phiếu Việt Nam mới trong giai đoạn đầu phát triển với sự tồn tại của thị trường trái phiếu Chính phủ. Dư nợ trái phiếu còn rất thấp (khoảng 7% GDP) so với các thị trường trong khu vực (Trung Quốc 21%, Thái Lan 33%, Malaysia 62%), chủ thể phát 8 hành không đa dạng, chưa có hệ thống các nhà tạo lập thị trường và hệ thống giao dịch, thanh toán còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, một thị trường để giúp hai đối tượng rất quan trọng là doanh nghiệp và chính quyền địa phương huy động vốn thì hầu như chưa tồn tại. III. Giai đoạn hiện nay 1. Năm 2009: *Trái Phiếu Chính Phủ Thị trường sơ cấp - So với năm 2007 và 2008, tỷ lệ thành công của các phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ bằng VND trong năm 2009 có xu hướng giảm mạnh. Cụ thể, năm 2007 huy động được 15.839 tỷ đồng/khối lượng gọi thầu 23.400 tỷ đồng, tỷ lệ thành công là 67,69%; năm 2008 huy động 6.060 tỷ đồng/26.600 tỷ đồng khối lượng gọi thầu, tỷ lệ thành công 22,78%; năm 2009 huy động 2.578,5 tỷ đồng/62.700 tỷ đồng khối lượng gọi thầu, tỷ lệ thành công 4,18%. - Điểm nhấn trong hoạt động đấu thầu TPCP tại HNX trong năm 2009 là tổ chức thành công 6 phiên đấu thầu TPCP bằng ngoại tệ (USD), với các kỳ hạn 1, 2 và 3 năm. Kết quả là tổng khối lượng đăng ký là 2.089,2 triệu USD, gấp 3,8 lần so với khối lượng gọi thầu. Tổng khối lượng trúng thầu 387,11 triệu USD, tỷ lệ thành công cao (70,38%). Số trái phiếu đấu thầu thành công trong đợt 1/2009 và đợt 2/2009 lên niêm yết và giao dịch trên hệ thống giao dịch trái phiếu chính phủ. Thị trường thứ cấp + Xu hướng giao dịch giảm rõ rệt từ tháng 6/2009: Giá trị giao dịch của 6 tháng đầu năm chiếm hơn 70% tổng giá trị giao dịch cả năm 2009 + Tổng giá trị trái phiếu được chuyển nhượng qua sàn trong năm 2009 vào khoảng 77.500 tỉ đồng, chỉ bằng 40% so với mức 195.600 tỉ đồng của năm 2008. Giá trị trái phiếu được chuyển nhượng trong một phiên giao dịch trung bình là 300 tỉ đồng, thấp hơn nhiều so với mức 800 tỉ đồng của năm 2008. Nguyên nhân: Thứ nhất, trần lãi suất trái phiếu cho đấu giá tại thị trường sơ cấp được đưa ra là 7% từ đầu năm không hề thu hút nhà đầu tư, khi nhà đầu tư vẫn tiếp tục trả giá với mức ở thị trường thứ cấp. Thứ hai, vốn huy động dự trữ không được giải ngân hết. Từ năm 2003-2008 huy động được hơn 300 ngàn tỉ đồng, nhưng mới giải ngân 65 ngàn tỉ đồng. Với lạm phát cao, Chính phủ đã không thực hiện các dự án tránh làm nóng thêm nền kinh tế. Chính phủ không phải chịu áp lực lớn trong việc huy động vốn không thành công, do một phần trái phiếu phát hành thành công trong các năm trước được chuyển sang giải ngân trong năm 2009 (khoảng 8.000 tỷ đồng). Thêm vào 9 đó, bản thân các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu chính phủ (TPCP) cũng giải ngân chậm tiến độ. Như vậy, nhu cầu tăng dự trữ trong năm 2009 của Chính phủ vẫn không rõ ràng. Thứ ba là sự lựa chọn đồng USD. Tính thanh khoản của USD được cải thiện khi nhà đầu tư quan tâm nắm giữ những đồng tiền có mệnh giá ổn định *Trái Phiếu DN Có nhiều đợt pháthành thành công, trong đó chủ yếu là hình thức phát hành trái phiếu với lãi suất thả nổi. Ước tính đã có khoảng 18.000 tỉ đồng giá trị trái phiếu có lãi suất thả nổi được bán ra, chiếm 77% trong tổng giá trị trái phiếu huy động được (hơn 26.000 tỉ đồng): CTCP Vincom (VIC) (phát hành 100 triệu USD TP chuyển đổi quốc tế, niêm yết tại Sàn GDCK Singapore); CTCP Phát triển đô thị Kinh Bắc (KBC) (1200 tỷ đồng); FPT (1800 tỷ đồng); HAGL ( 1450 tỷ đồng)… Tuy nhiên, đó chỉ là một số rất nhỏ các doanh nghiệp trong số các doanh nghiệp đã niêm yết có thể huy động vốn theo phương thức này. Nếu hệ thống thông tin thị trường đầy đủ, chính xác, các quy định bảo vệ nhà đầu tư được ban hành và thực hiện nghiêm túc thì sẽ có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn hiệu quả có thể đáp ứng được nhu cầu vốn hoạt động thông qua con đường phát hành trái phiếu. Một trong những trở ngại chính trên thị trường trái phiếu là Việt Nam chưa có lãi suất chuẩn làm lãi suất tham chiếu trong việc xác định lãi suất thả nổi. Vì vậy, các nhà phát hành thường dùng mức lãi suất bình quân của bốn ngân hàng thương mại lớn là BIDV, Vietcombank, Vietinbank và Agribank làm lãi suất tham chiếu. Ngoài ra, một số ít khác thì dùng lãi suất cơ bản hoặc lãi suất trần của trái phiếu chính phủ kỳ hạn tương ứng. 10 2. Năm 2010: *Trái Phiếu Chính Phủ Tổng lượng phát hành trên thị trường TPCP sơ cấp đạt mức cao kỷ lục Loại TP Kế hoạch phát hành 2010 (tỷ đồng) Tổng lượng thành công (tỷ đồng) % so với kế hoạch phát hành TPCP 100,000 68,448.6 68.45% VDB 30,000 36,357.3 121.19% Tổng 130,000 104,805.9 80.62% Trên thị trường thứ cấp: Tổng giá trị giao dịch trên HNX năm 2010 Nguyên nhân chính: - Các nhà đầu tư nước ngoài chưa quay trở lại thị trường do có sự quan ngại nhất định về sự mất giá của VND so với USD. - Nhu cầu mua TPCP tăng mạnh của khối các TCTD trong nước, do: + Bối cảnh CSTT mở rộng giai đoạn giữa năm làm gia tăng áp lực dư thừa vốn. + Thông tư 13 và Thông tư 19 buộc các TCTD phải tăng cường đầu tư vào TPCP. + Lộ trình tăng vốn các NHTM trong nước diễn ra trên phạm vi rộng đẩy nhu cầu mua TPCP tăng cao. + Một lượng khá lớn TPCP đáo hạn trong năm 2010, phần lớn là tại các NHTM. * Trái phiếu doanh nghiệp. 11 Mặc dù trên thị trường sơ cấp có nhiều đợt phát hành TPDN diễn ra thành công, trên thị trường TPDN thứ cấp hầu như không có nhu cầu mua bán, ngoại trừ một số trái phiếu của các doanh nghiệp lớn như Vinashin, EVN, Lilama, BIDV, FPT. Nguyên nhân chính: - Nhà đầu tư thường xác định phương án nắm giữ tới khi đến hạn; - Việc xác định giá TPDN trong giao dịch mua bán lại gặp nhiều khó khăn do thanh khoản hạn chế, không có tiêu chuẩn làm căn cứ tính giá. C. Tổng kết Tóm lại, khi xem xét toàn bộ quá trình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam chúng ta cần xem xét trên các yếu tố quan trọng sau: 1. Về khối lượng giao dịch trái phiếu thành công Nhìn chung, khối lượng phát hành trái phiếu thành công giai đoạn 2006 – 2010 chứng kiến một sự tăng trưởng mạnh mẽ, với năm 2006 và 6 tháng đầu năm 2007 thông qua gần 30 phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ tại HASTC, đã huy động được 12.695 tỷ đồng cho ngân sách Nhà nước,nối tiếp sau đó là sự sụt giảm đáng chú ý ở giai đoạn cuối năm 2007 đến cuối 2008 chỉ huy động được hơn 7008 tỷ đồng cho nguồn ngân sách nhà nước.Tuy nhiên từ năm 2009 đến nay lại chứng kiến một sự tăng trưởng kỷ lục về khối lượng phát hành với 68,448.6 huy động được từ nguồn trái phiếu chính phủ. Khối lượng trái phiếu phát hành thành công cho thấy một sự phát triền của công cụ huy động vốn này.Bên cạnh đó nó cho thấy niềm tin của nhà đầu tư trong ngoài nước đối với Việt Nam đang có những cải thiện đáng kể, hứa hẹn một tương lai đầy triển vọng cho thị trường Trái phiếu. 2. Về lãi suất trái phiếu Nếu như giai đoạn 2006 – 2010 chứng kiến một sự tăng trưởng tíc
Tài liệu liên quan