Báo chí Đồng Nai từ năm 1859 đến 1945 gắn liền với sự hình thành và phát triển
của báo chí Nam bộ. Trước khi tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên ra đời - tờ Gia
Định báo, ở Nam bộ có ba tờ báo tiếng Pháp và chữ Hán: Le bulletin officiel de
L'expe'dition de la Conchichine (1861 - 1888), Le bulletin des Comnumes (1862),
Le courrier de SaiGon (1864). Ba tờ này chủ yếu in những công văn, thông tư,
nghị định. của chính phủ và do người Pháp thành lập. Không mấy người đọc được
tiếng Pháp nên người Pháp mới nghĩ đến thành lập một tờ báo tiếng Việt. Với sự ra
đời của Gia Định báo (1865), báo chí bằng chữ quốc ngữ ở Nam bộ đã xuất hiện
sớm hơn ở Bắc và Trung bộ trên 40 năm ([1][1]).
28 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo chí Đồng Nai từ năm 1859 đến 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo chí Đồng Nai từ năm 1859 đến 1945
Báo chí Đồng Nai từ năm 1859 đến 1945 gắn liền với sự hình thành và phát triển
của báo chí Nam bộ. Trước khi tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên ra đời - tờ Gia
Định báo, ở Nam bộ có ba tờ báo tiếng Pháp và chữ Hán: Le bulletin officiel de
L'expe'dition de la Conchichine (1861 - 1888), Le bulletin des Comnumes (1862),
Le courrier de SaiGon (1864). Ba tờ này chủ yếu in những công văn, thông tư,
nghị định... của chính phủ và do người Pháp thành lập. Không mấy người đọc được
tiếng Pháp nên người Pháp mới nghĩ đến thành lập một tờ báo tiếng Việt. Với sự ra
đời của Gia Định báo (1865), báo chí bằng chữ quốc ngữ ở Nam bộ đã xuất hiện
sớm hơn ở Bắc và Trung bộ trên 40 năm ([1][1]). Sở dĩ báo chí ở Nam bộ phát
triển sớm vì Pháp chiếm Nam bộ trước [PT1] [PT1]([2][2]). Nam bộ là một thuộc
địa khác với Bắc và Trung bộ là chế độ bảo hộ. Là thuộc địa nên Nam bộ theo chế
độ trực trị, điều kiện làm báo có nới hơn và đặc biệt là được hưởng đạo luật báo chí
của Pháp (29 - 7 - 1881). Theo đạo luật này thì việc ấn hành sách báo ở Nam kỳ
được hoàn toàn tự do, dù báo chữ Pháp hay Việt. Điều luật có ghi: "Tất cả các loại
báo sẽ được phát hành không cần sự cho phép trước và không cần ký qũy tiền, sau
khi được công bố đúng theo điều 7". Điều 7 quy định, trước khi phát hành, tờ báo
phải được khai báo ở Sở Biện lý những gì có liên quan đến: "Tít báo, loại báo; Tên
họ, địa chỉ người quản lý; Ghi rõ nơi in báo; Tất cả những thay đổi về những điều
trên được khai báo trước 5 ngày". Tuy nhiên về sau, Chính phủ Pháp lại ban bố sắc
lệnh 30 - 12 - 1898 nhằm sửa đổi một số điều của đạo luật trên. Cụ thể là: "Tất cả
những tờ báo in bằng chữ quốc ngữ, bằng chữ Hoa hay bất cứ một thứ tiếng nào
khác ngoài tiếng Pháp phải có sự cho phép trước của quan Toàn quyền sau khi
quan Toàn quyền hội ý với ban thường trực Thượng hội đồng Đông Dương". Lý do
sửa đổi là nhằm hạn chế sự phát triển của báo chí mà suy cho cùng là hạn chế sự
công kích, vạch trần âm mưu, thủ đoạn xâm lược nước ta của thực dân và thực
trạng đen tối của xã hội Việt Nam dưới ách đô hộ của thực dân và bọn tay sai. Sắc
luật 1898 tuy trái với đạo luật 1881, nghĩa là không hợp hiến nhưng nó vẫn tồn tại
lâu dài cho đến năm 1936 khi Mặt trận bình dân thắng cử ở Pháp. Và mãi cho đến
năm 1938, mới có một tờ báo tiếng Việt phát hành mà không phải xin phép quan
Toàn quyền, chỉ báo cho sở Biện lý. Đó là tờ Dân chúng.
I.2. Trên thế giới, báo chí ra đời là nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin trong xã
hội. Ở nước ta, báo chí nảy sinh do thực dân Pháp dùng nó làm công cụ thống trị
sau khi ổn định quá trình xâm lược, cho cái gọi là "sứ mạng khai hóa"... của chúng.
Do vậy, buổi đầu, thực dân Pháp dùng báo chí để phổ biến các thông tư, nghị
định..., cổ võ cho tiếng Pháp và chữ quốc ngữ la tinh, nhằm đánh bại chữ Hán
Nôm, cũng đồng nghĩa với việc đẩy lùi và loại trừ thế lực tinh thần của sĩ phu yêu
nước lúc bấy giờ - lực lượng chủ yếu lãnh đạo kháng chiến chống Pháp. Nhưng rồi,
người mình thấy được lợi ích của chữ quốc ngữ "dễ học, dễ thuộc", nó như một
phương tiện để nâng cao trình độ dân trí, mở mang văn hóa dân tộc, truyền bá tư
tưởng yêu nước, tinh thần độc lập dân tộc và nhất là dùng chính cái vũ khí của thực
dân để đánh lại thực dân.
Đặc điểm này đã thể hiện rất rõ ở báo chí nước ta, đặc biệt là báo chí Nam
bộ, mảnh đất "màu mỡ" của báo chí vào buổi đầu hình thành cho đến 1945:
I.2.1 Khởi đầu từ Gia Định báo ([3][3]) đến các tờ báo tiếng Việt ra đời ở
Nam bộ trong những năm cuối thế kỷ 19 (Phan Yên báo, Nam kỳ địa phận
([4][4])...), hầu hết đều do bọn thống trị Pháp lập ra nhằm phục vụ cho chính sách
xâm lược đất nước ta, nô dịch nhân dân ta. Người viết báo gồm cả người Pháp lẫn
người Việt. Những người Việt viết báo hầu hết là công chức của Pháp.
Báo chí buổi đầu là một công cụ văn hóa nhằm thực hiện chính sách thống
trị của thực dân Pháp. Song ở một phía khác, người Việt Nam cũng bắt đầu làm
quen với một phương tiện thông tin mới: báo chí. Từ đó, dần dần tiến lên sử dụng
báo chí như một vũ khí đấu tranh. Thông qua báo chí, người Việt Nam tìm hiểu
tình hình trong nước, thế giới, tìm hiểu âm mưu, thủ đoạn của thực dân và tay sai.
Các nhà yêu nước Việt Nam đã thấy chữ quốc ngữ là công cụ rất tốt để tuyên
truyền chủ nghĩa yêu nước và giáo dục mở mang dân trí trong nhân dân.
I.2.2. Bước sang thế kỷ 20, tình hình nước ta có những chuyển biến mới. Sau
khi ổn định quá trình xâm lược, thực dân Pháp bắt tay vào việc xây dựng chế độ
thực dân và khai thác thuộc địa. Thời kỳ này, những cuộc khởi nghĩa vũ trang của
nhân dân ta chống thực dân Pháp đều bị thất bại nhưng nhân dân ta vẫn tiếp tục
đấu tranh chống Pháp bằng nhiều hình thức khác nhau như: phong trào chống đi
phu, chống sưu thuế (1908), cuộc vận động Duy Tân (1906 - 1908) và Đông Kinh
Nghĩa Thục (1907). Trong tình hình mới, thực dân Pháp càng tăng cường sử dụng
vũ khí báo chí vào chính sách khai thác thuộc địa. Các tờ Nông cổ mím đàm, Đại
Việt tân báo, Lục tỉnh tân văn, Đăng cổ tùng báo, Đông Dương tạp chí, Trung Bắc
tân văn... ra đời. Song tác động của cuộc đấu tranh của các lực lượng yêu nước nên
báo chí cũng phản ảnh một phần tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, trong đó có
phong trào đấu tranh quần chúng chống Pháp. Một vài tờ báo tiếng Việt như Đại
Việt tân báo, Đăng cổ tùng báo, Lục tỉnh tân văn... thỉnh thoảng có đăng bài bày tỏ
thiện cảm đối với phong trào chính trị do Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh lãnh
đạo.
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Ở châu Âu, Pháp và Đức đánh
nhau. Thực dân Pháp huy động sức người, sức của ở Đông Dương để cung ứng cho
chiến tranh. Chúng sử dụng báo chí (các tờ Công luận báo, Nam Phong...) để phục
vụ cho chủ trương này. Các nhà yêu nước Việt Nam, nhân cơ hội Pháp mắc kẹt
trong chiến tranh chống Đức đã vận động nhân dân nổi lên đánh đuổi giặc Pháp,
giành lại độc lập dân tộc.
Theo Lịch sử báo chí của Hoàng Chương, trong những năm cuối thế kỷ 19
và 10 năm đầu thế kỷ 20, ở nước ta có khoảng 10 tờ báo tiếng Việt, trong lúc đó có
trên 70 tờ báo tiếng Pháp do người Pháp xuất bản. Một số tờ báo tiếng Việt chỉ là
bản dịch báo tiếng Pháp ([5][5])...
I.2.3 Từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến khi có Đảng CSVN: Báo chí
do người Việt làm chủ và là phương tiện đấu tranh chính trị
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, ở nước ta đã xuất hiện những lực lượng xã hội
mới: đó là giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Các giai cấp này hình thành và
phát triển trong các đợt khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
Phong trào cách mạng cũng có những chuyển biến mới. Nếu trước đó, phong
trào do tầng lớp sĩ phu yêu nước xuất thân từ giai cấp phong kiến lãnh đạo thì từ
sau chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào cách mạng do tầng lớp thanh niên tiên
tiến có ảnh hưởng Cách mạng Tháng 10 Nga, hoặc tầng lớp trí thức xuất thân từ
giai cấp tư sản dân tộc lãnh đạo. Đây là thời kỳ đấu tranh để chuẩn bị thành lập
đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam, là thời kỳ đấu tranh giữa giai
cấp công nhân và giai cấp tư sản dân tộc để giành quyền lãnh đạo cách mạng Việt
Nam.
Báo chí ở nước ta từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất cũng tăng hơn nhiều.
Để thi hành chính sách cải lương, thực dân Pháp không giữ độc quyền báo chí như
trước nữa mà cho một số người thuộc tầng lớp trên trong xã hội nước ta được phép
xuất bản báo chí. Cố nhiên, là phải tuân theo pháp luật của chính quyền thực dân
và phải chịu sự kiểm soát của chúng. Tất cả các tờ báo xuất bản công khai trong
thời kỳ này đều hoặc tự nguyện, hoặc bị ép buộc phải phục vụ cho chính sách khai
thác thuộc địa và chính sách cải lương của thực dân Pháp. Ngoài nét chung đó, mỗi
tờ báo lại có nét riêng, phản ánh lợi ích của chủ báo là người trong giai cấp tư sản
hoặc địa chủ. Một số người có thế lực và tiền đã xuất bản báo chí, dùng báo chí
làm phương tiện để mua danh lợi. Trong nghề báo dần dần hình thành hai loại:
người chủ báo và người viết báo. Nếu trong thời kỳ từ năm 1918 trở về trước, báo
chí ở nước ta nói chung chỉ có một khuynh hướng duy nhất là khuynh hướng thực
dân phong kiến, thì báo chí trong thời kỳ sau năm 1918 có nhiều khuynh hướng
phức tạp hơn, phản ánh lợi ích của nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội lúc bấy giờ.
Tại Sài Gòn, một số tờ báo xuất bản vào thời kỳ này như: Đông Pháp thời báo của
Nguyễn Kim Đính (1923), Kỳ lân báo (1928) của Vân Trình (chủ nhiệm) và Bùi
Ngọc Thự (quản lý), Thần Chung (1929) của Diệp Văn Kỳ...
Một sự kiện quan trọng đáng chú ý của thời kỳ này là sự ra đời của báo chí
cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga (1917), việc thành
lập Quốc tế cộng sản và những hoạt động của Quốc tế cộng sản đã tác động tích
cực đến phong trào yêu nước ở Việt Nam. Báo chí cách mạng ra đời là một tất yếu
khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển phong trào yêu nước trong
thời kỳ mới. Báo Thanh Niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập, số đầu tiên ra ngày 21
- 6 - 1925 là tờ báo cách mạng đầu tiên ở nước ta. Báo xuất bản hàng tuần vào
ngày chủ nhật, 4 trang, khổ 18x24. Báo in ở Quảng Châu, in xong được chuyển về
nước theo đường dây liên lạc bí mật. Những người cách mạng trong nước chép lại
thành nhiều bản để lưu hành rộng rãi hơn. Báo Thanh Niên là ngọn nguồn của báo
chí cách mạng Việt Nam. Sau khi báo xuất bản, nhiều tờ báo cách mạng khác kế
tiếp nhau ra đời. Theo thống kê, trong khoảng 20 năm (từ khi báo Thanh Niên ra
đời đến Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi), có khoảng trên 550 tờ báo cách
mạng đã được xuất bản và lưu hành trong cả nước ta
I.2.4. Từ khi có Đảng đến cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công:
Báo chí phát triển mạnh mẽ và song song với hai dòng báo chí:
- Báo chí cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương phát hành trong bí
mật. Đó là báo chí của Trung ương Đảng, Xứ ủy, Tỉnh ủy, cả báo trong nhà tù đế
quốc: Hỏa lò, Sơn La, Ban mê Thuộc, Khám lớn, Côn Đảo. Cộng với báo chí của
các Đảng Cộng Sản Pháp, Trung Hoa, Liên Xô cũng được chuyển từ Pháp, Trung
Hoa, Liên Xô qua đường dây bí mật đến Việt Nam, đến các Đảng viên Đảng Cộng
sản Đông Dương, đến nhân dân Việt Nam, đến nhân dân Đông Dương.
- Báo chí công khai: Có những xu hướng:
* Báo chí của nhà cầm quyền Pháp, nội dung chống Đảng Cộng sản Đông
Dương, nhất là khi có cuộc khởi nghĩa Nghệ Tĩnh. Đơn cử một số báo như: Trường
An Cận Tín (1930) của Phủ Thống sứ Trung kỳ, Thanh Nghệ Tĩnh tân văn (1930)
của Phủ công sứ Vinh, Bình Phú tân văn (1930) của Phủ Thống sứ Trung kỳ...
Những tờ báo này chỉ tồn tại không lâu. Riêng các tờ Lục Tỉnh tân văn (bộ mới
1907), Đông Dương Tây chí (1918), Nam Phong Tây chí (1925) đều có trợ cấp, rồi
lần lượt chết, chỉ còn Lục Tỉnh tân văn là tờ công báo cuối cùng đến khi Nhật lật
đổ Pháp ở Đông Dương thì tờ báo mới chết hẳn.
* Báo chí đối lập, nhất là phong trào Đông Dương đại hội (tiếng Việt, tiếng
Pháp) đủ loại ra đời: Lao Động (1933), La Lutte (1935), Le Travail (1936), Nhành
Lúa, Tin Tức, L'Avant Garde Le Peuple (1937), Dân Chúng (1939)...
Năm 1936, có chuyện báo chí xuất bản không cần xin giấy phép, đi đầu là tờ
Dân Chúng của Cendrieux. Báo bị nhà cầm quyền Pháp ở Sài Gòn tịch thu.
Cendrieux là người Pháp theo luật báo chí của Pháp thì không xin phép, nên phản
đối và cứ tiếp tục ra báo (chỉ gởi cho Biện Lý cuộc ban trước 24 giờ xuất bản). Tức
nhiên báo vẫn bị tịch thu, chủ nó là Cendrieux bị đưa ra Tòa. Tòa phúc án ở Sài
Gòn xử báo Dân Quyền được Biện Lý cuộc Sài Gòn chống án qua Pháp (đó là lúc
ở Pháp Chính phủ Bình Dân nắm quyền, chính phủ có Đảng Cộng sản Pháp)... Mãi
hai năm sau Tòa án này công nhận Tòa phúc án ở Sài Gòn xử đúng. Cũng từ đó
báo chí ở Việt Nam phá thông lệ muốn ra báo phải xin phép... Nhưng chỉ được một
thời gian.
Thời gian này, một số tờ báo của tư nhân tiến bộ chuyên ngành cũng ra đời
như: Tri Tân, Thanh Nghi, Khoa học...
I.2. Người Đồng Nai viết báo, làm báo:
Giai đoạn này, Đồng Nai chưa có tờ báo riêng mang tính chất báo địa
phương như các giai đoạn sau này. Tuy nhiên, người Biên Hòa - Đồng Nai (gồm
người sinh ra và lớn lên ở địa phương này cũng như dâu, rể, hay người nơi khác có
lúc dừng chân trên dòng sông Đồng Nai lịch sử... đã nhìn nhận đất Biên Hòa là quê
hương thứ hai) đã tham gia làm báo, viết cho các tờ báo ở Sài Gòn, Hà Nội... thì
không ít. Theo ông Hoàng Thơ, từ năm 1865 đến 1945 (tức gần 80 năm), người
Đồng Nai đã tham gia làm báo và viết báo trên 21 tờ báo, tạp chí, chuyên san...
Sưu tầm các tư liệu có được ông cho biết:
* Gia Định Báo: (bộ mới) số 9 ra ngày 24 tháng 3 năm 1870 có tin của thầy
giáo (lúc ấy gọi là giáo tập) Trần Văn Kim ở làng Bình Dương ([6][6]) huyện Long
Thành, bản tin ấy không có tựa như sau:
"Tại làng Bình Dương có một người ngoại tên Chánh, ngày 30 tháng Chạp
rước ông bà qua ngày mùng một tháng giêng năm mới là năm canh ngũ nhằm
đứng bóng mới dọn đồ lên bàn thờ mà cúng. Khi người ấy vái lạy xong xá rồi ngó
thấy đồ ăn thì hết mà không thấy ai ăn, thời mọi nhà lấy làm lạ lắm, rồi lại thấy có
hai cái răng lại càng sửng sờ và sợ quá, mới chạy kêu lối xóm đến coi, vậy có kẻ
gọi răng ấy là ngọc quý, có kẻ lại cho rằng ấy chẳng phải là ngọc quý song nó là
ma quỷ đó. Khi ấy, thiên hạ nghe mà chạy đến coi rất đông, liền có đất ai quăng,
bấy giờ ai ai đều tin là ma mà thôi. Ma ấy chỉ quấy người nhà mà thôi. Quăng
trúng người con trai sưng cánh tay rồi lại quăng nhầm bàn tọa người dân không đi
đâu đặng."
* Năm 1901 báo Nông Cổ Mín Đàm ([7][7]) ra đời, số 1 ra ngày 1 tháng 8.
Báo do viên hội đồng quản hạt Canavaggie làm Giám đốc, chủ bút (thay đổi nhiều
người) Đỗ Thúc Lương Khắc Ninh, Gillert Chiếu, Nguyễn Đồng Trụ, Lê Văn
Trung, Tân Châu Nguyễn Chánh Sát.
Tuần báo: Về phương diện văn chương lối hành văn còn thô sơ. Có những
bài liên quan với canh nông sĩ nghệ cao su, trà, cà phê). Thỉnh thoảng có đăng thơ
(của độc giả cộng tác viên) ở trang nhất.
Trịnh Hoài Nghĩa ([8][8]) (cháu Trịnh Hoài Đức) đang dạy học ở Trường
trung học Mỹ Tho cũng có gởi thơ đăng trên báo này.
Năm 1907, báo Lục Tỉnh tân văn (bộ cũ) ra đời đây là tờ báo tuyên truyền
của nhóm Minh Tân chịu ảnh hưởng của Đông Du - Phan Bội Châu.
Số 30 ra ngày 16 tháng 7 có tin về chuẩn bị thành lập tiệm buôn Nam Hòa
Hưng tại chợ Biên Hòa ([9][9]):
"Hội thương mãi này do người tùng chánh trong các ty làm việc hiệp với
mấy ông cai tổng, phó tổng và hội đồng trong hạt mà thành lập một cuộc hùn buôn
bán cá hóa hàng tại Châu Thành Biên Hòa, đây là hội thương mãi ẩn danh
(Société Anonyme) bạc vốn là 11.800 đồng, nhóm đại hội ngày 19 tháng 4 năm
1908 có mặt 130 ông có bắt thăm cử 6 ông phiên viên lo lập tiệm này là:
Ông: Lê Tấn Biện làm Chánh tổng lý
Ông: Phan Trung Lưu, Phó Tổng lý
Ông: Nguyễn Hóa Nhơn, Tư hòa.
Ông: Ngô Phước Lượng, thơ ký.
Ông: Lê Văn Huê, thơ ký.
Ông: Nguyễn Văn Chức, Nghị sư.
Lại có cử 3 ông kiểm soát lo tra xét sổ sách và tiền bạc,
Ông: Lê Văn Thôn, Trương Văn Nga, Trần Văn Đa.
Từ 15 đến 30 tháng 5, bạc hùn đã đóng có 7.000 đồng".
Số 35 ra ngày 16 tháng 7, có bài thơ của Lê Thời Khương ở làng Mỹ Khoan,
tổng Thành Tuy hạ, quận Long Thành khen Nam Trung Khánh sau:
Lai vãng từ đây có chỗ nương.
Nam. Trung tiếp rước rất khiêm nhường
Trong tiệm lao xao người 6 tỉnh
Ngoài hiên chộn rộn khách đôi phương
Ăn uống dọn bày theo Nam Việt.
Ghế bàn sắp đặt khách Tây Dương.
Như vậy mới phải nhà khách sạn.
Kính tặng Gilbert thọ cửu trường.
Và số 46 có tin thêm về tiệm buôn Nam Hòa Thạnh:
Ngày 1 tháng 10 năm 1908, ông G. Chiếu chủ nhơn dịp đi Biên Hòa mua đá đặng
cất lò savon ở Mỹ Tho có đánh giây thép báo tin cho thầy ký Lương là người có
hùn Minh Tân Công nghệ, nên khi đến Biên Hòa ông G. Chiếu viếng ngay tiệm
Nam Hòa Thạnh công ty.
Thiệt là đáng khen, bán đủ các món hàng thiên hạ cần dùng, nhà rộng rãi ba căn
lầu, vốn được 12.000 đồng. Đầu gia là M.Vân, nho nhã chiêu hiền đãi sĩ. Tôi chắc
sau Công ty nầy sẽ thành vì tổng làng đều có hùn vào đó, chẳng hề chịu mua của
các - chú nữa. Tánh người An Nam mình hay sợ sệt lắm mà hễ có các ông nha môn
ra làm đầu thì đâu đâu ai cũng xin vô hùn. Ấy vậy nơi Nam kỳ Tỉnh Bà Rịa và Biên
Hòa là nghèo hơn các tỉnh khác mà sao lại khởi sự làm gương trước. Đấy là tại
nhiều người trong tỉnh biết thương quê hương. Bổn quán mừng và khen chư vị
quân tử Biên Hòa.
Năm 1917, tờ An Hà Báo ra đời. Đây báo tuần bằng tiếng Việt của tờ Le
Courrier de L' Ouest. Báo thông tin có liên quan đến canh nông, thương mãi và kỹ
nghệ. Đó cũng tờ báo địa phương xuất bản ở Cần Thơ. Chủ nhiệm Võ Văn Thơm
chủ bút (trước) Nguyễn Tất Đoài (sau) Trương Quang Tiền ([10][10])
Năm 1920, có tờ Sư Phạm Học Khoa, tuần báo ra ngày thứ hai. Được sự bảo
trợ của Giám Đốc nha tiểu học Nam Kỳ: Nguyễn Trọng Quản ([11][11]).
Hai giáo sư tốt nghiệp cao Đẳng sư phạm Hà Nội là Phan Thanh Hương
([12][12]) và Trần Văn Quế ([13][13]) có gởi bài đăng báo này.
Và năm 1929 có tờ Phụ nữ Tân Văn ra đời , số 1 ra ngày 2 tháng 5 năm
1929. Tuần báo chuyên ngành. Chủ nhiệm bà Nguyễn Đức Nhuận tức Trần Thị
Khánh, chủ bút Đào Trinh Nhứt. Ban Biên Tập: Phan Khôi, Viên Hoàn (em Hồ
Biểu Chánh) Phan Văn Hùm, Hồ Biểu Chánh, Bửu Đình, Thiếu Sơn, Nguyễn Thi
Kiêm Phan Thị Nga, v.v...
Báo tuy thuộc nữ giới, nhưng các giới khác đều chuộng số phát hành lớn,
phát hành không riêng ở Nam kỳ mà cả Trung Bắc, Cao Miên, Ai Lao và Pháp.
Báo có nội dung phong phú, số ra mắt đã có các mục và bài như:
1. Ý kiến của chúng tôi đối thời sự.
2. Phụ nữ hướng Truyền: Đồn bà làm quan Tòa. Có phép chỉ đẻ con trai.
Một năm chỉ có hai cái áo.
3. Cuộc trưng cầu ý kiến của Phụ nữ Tân Văn: Các danh nhân trong nước
đối với vấn đề phụ nữ.
4. Về văn học phụ nữ Việt Nam
5. Văn uyển
6. Khảo về giáo dục phụ nữ nước Nhựt Bổn.
7. Việt Nam phụ nữ liệt truyện
8. Gia Chánh: Cá kho, Tiết kiệm trong sự ăn uống.
9. Phụ nữ vệ sinh: Đàn bà có thai. Cách vệ sinh khi có kinh nguyệt.
10. Ý kiến vệ sinh: Sự đẹp
11. Gần đây trong nước có những việc này
12. Nói chuyện thế giới: Thơ cho bạn
13. Sang Tây: Du hý của một thiếu nữ
14. Hai đàm
15. Tiểu thuyết: Vì nghĩa vì tình của Hồ Biểu Chánh.
16. Phần nhi đồng
17. Cuộc thi: Nàng Túy Kiêu nên khen hay nên chê.
Tờ báo ra đời chỉ có ba năm: (1929 - 1932) nhưng cũng cống hiến cho xã hội
các công ích:
- Trợ cấp cho học sinh nghèo có thể du học bên Pháp.
- Lập ký nhi viện
- Hội chợ thi nữ công
- Lập quán ăn cho lao động và dân thất ngiệp.
Nàng dâu Biên Hòa là bà Nguyễn Háo Cá ([14][14]). Bà là cộng tác viên của
báo, viết các mục Xã luận, gia chánh, làm thơ. Bà cũng là nhà hoạt động xã hội của
"Nhóm các bà vợ các ông trí thức Sài Gòn": Bà luật sư Trịnh Đình Thảo, bà kỹ sư
Lưu Văn Lang, bà giáo sư Trương Vĩnh Tống; các bà bác sĩ: Nguyễn Văn Nhã,
Trần Văn Đôn, Nguyễn Văn Thinh... Chính nhóm này đã hỗ trợ cho bà chủ bút Phụ
nữ Tân Văn làm được một số công trình xã hội công ích lúc ấy.
* Năm 1934, trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy (loại cũ), Nhứt Lưu ([15][15]) và
Trọng Khánh ([16][16]) gởi truyện ngắn "Hận Rừng Xanh" và được đăng. Sau đó
Nhứt Lưu còn đăng thơ và truyện ngắn nữa không ký tên chung. Tờ báo này về sau
có nhiều cây bút tên tuổi cộng tác: Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, Lê Văn Trương,
Nguyễn Đỗ Mục, Trúc Khê, Ngọc Giao, Thanh Châu, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyên
Hồng, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm và các cây bút
mới khắp ba miền: Kim Lân (Bắc Ninh), Nguyễn Văn Nhàn (?), Nguyễn Tất Thứ
(Nghệ An), Bửu Kế, Phan Du (Huế), Nguyễn Văn Xuân (Quảng Nam), Lý Văn
Sâm (Biên Hòa) ([17][17]), Lê Công Thành (Thủ Dầu Một), Thành Kỉnh (Tây
Ninh)...
Năm 1935 tuần báo Sống ra đời ở Sài Gòn, do nhóm nhà giáo dạy Trí Đức
Học Xá ở Hà Tiên. Do Đông Hồ làm Giám đốc, Sơn Khanh ([18][18]) và Hi Đam
([19][19]) có gởi thư đăng báo này.
Đó cũng là lúc các nhựt bá