Việt Nam là một đất nước đa dạng sinh học nông nghiệp và là nơi sinh sống của các loài hoang dại thân thuộc của một số cây trồng quan trọng (bao gồm lúa, cây ăn quả v.v ). Trong nửa thế kỷ qua, Việt Nam đã trải qua một giai đoạn lịch sử phức tạp, hậu quả của chiến tranh đã ảnh hưởng to lớn đến đa dạng sinh học.
Nhà nước Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn để ngăn chặn suy giảm đa dạng sinh học nói chung và tài nguyên di truyền thực vật nói riêng. Một trong các biện pháp được ưu tiên đó là xây dựng các qui định pháp luật, nâng cao nhận thức của các bên liên quan. Những luật và các Hiệp ước phù hợp nhất mà Chính phủ Việt Nam kí kết với quốc tế là sự chấp thuận của Hiệp ước Đa dạng sinh học (CBD) năm 1994, kế hoạch hành động Việt Nam về bảo vệ đa dạng sinh học ban hành tháng 12/1995; sự chấp thuận kế hoạch hành động toàn cầu của FAO năm 1996 và sự chấp thuận của Chương trình nghị sự 21 đối với Việt Nam năm 2004.
21 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1935 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bảo tồn tài nguyên thực vật phục vụ mục tiêu lương thực và nông nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢO TỒN TÀI NGUYÊN THỰC VẬT PHỤC VỤ MỤC TIÊULƯƠNG THỰC VÀ NÔNG NGHIỆP: HIỆN TRẠNG VÀ THÁCH THỨC
Nguyễn Văn Đĩnh1, Nguyễn Thị Ngọc Huệ2, Nguyễn Ngọc Kính3,
Phạm Văn Hiền4, Nguyễn Tất Cảnh1 và CTV
dinhnguyenvan2003@yahooo.com
1. Đặt vấn đề
Việt Nam là một đất nước đa dạng sinh học nông nghiệp và là nơi sinh sống của các loài hoang dại thân thuộc của một số cây trồng quan trọng (bao gồm lúa, cây ăn quả v.v…). Trong nửa thế kỷ qua, Việt Nam đã trải qua một giai đoạn lịch sử phức tạp, hậu quả của chiến tranh đã ảnh hưởng to lớn đến đa dạng sinh học.
Nhà nước Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn để ngăn chặn suy giảm đa dạng sinh học nói chung và tài nguyên di truyền thực vật nói riêng. Một trong các biện pháp được ưu tiên đó là xây dựng các qui định pháp luật, nâng cao nhận thức của các bên liên quan. Những luật và các Hiệp ước phù hợp nhất mà Chính phủ Việt Nam kí kết với quốc tế là sự chấp thuận của Hiệp ước Đa dạng sinh học (CBD) năm 1994, kế hoạch hành động Việt Nam về bảo vệ đa dạng sinh học ban hành tháng 12/1995; sự chấp thuận kế hoạch hành động toàn cầu của FAO năm 1996 và sự chấp thuận của Chương trình nghị sự 21 đối với Việt Nam năm 2004.
Trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ngày 7/11/2006, sau 1 năm gia nhập WTO, hiện nay Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN & PTNT) và các bộ ngành khác khuyến khích mọi người hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và PTNT cần am hiểu cặn kẽ những cam kết của ngành với WTO, những luật lệ của WTO mà Việt Nam phải thực hiện, trên cơ sở đó xây dựng các cơ chế chính sách, tổ chức quản lý ngành và định hướng hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp (Cao Đức Phát, 2007).
2. Bảo tồn tài nguyên di truyền thực vật trên thế giới
Nhận thức chung trên thế giới vệ bảo tồn đa dạng sinh học đã được đưa ra từ những năm 70 của thế kỷ trước. Để có thể bảo tồn và sử dụng hiệu quả đa dạng sinh học nông, lâm nghiệp trong đó tài nguyên di truyền thực vật (TNDTTV) là hạt nhân, Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ nhất về môi trường họp tại Stockholme, Thụy Điển, năm 1972, đã kêu gọi khẩn cấp nhiệm vụ bảo tồn tài nguyên di truyền thực vật. Hai mươi năm sau, Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ hai họp tại Río de Janero, Brazin, năm 1992, đã thoả thuận Công ước đa dạng sinh học (CBD). Tháng 6/1996 FAO tổ chức Hội nghị kỹ thuật quốc tế lần thứ 4 về bảo tồn TNDTTV tại Lepzich (Đức) đã thống nhất định nghĩa TNDTTV phục vụ cho sản xuất lương thực và phát triển nông nghiệp bao gồm các loài và giống cây trồng, các đơn vị phân loại thực vật hoang dại có quan hệ gần gũi với cây trồng và các dạng TNDTTV khác có tiềm năng sử dụng hiện tại và trong tương lai cho mục tiêu sản xuất lương thực và sản xuất nông nghiệp (TNDTTVLN). Hội nghị Lepzig nêu rõ TNDTTVLN là cơ sở sinh học của sự an toàn lương thực thế giới và hỗ trợ cho sự sinh tồn của loài người trên trái đất. Vậy nên bảo tồn TNDTTVLN là vấn đề quan trọng mang tính thời sự quốc tế. Tại Hội nghị này đã thống nhất Kế hoạch hành động toàn cầu (Global Plant of Action, GPA) về bảo tồn quỹ gen cây nông nghiệp.
Năm 2001 Đại hội đồng FAO đã thông qua Hiệp ước về Tài nguyên di truyền thực vật phục vụ mục tiêu lương nông (ITPGRFA). Hiệp ước bao gồm 7 chương với 35 điều và 2 phụ lục lớn. Mục tiêu của Hiệp ước là bảo tồn và sử dụng bền vững TNDTTVLN; chia sẻ lợi ích công bằng và hợp lý từ sử dụng TNDTTVLN trong sự thống nhất hài hoà với Công ước đa dạng sinh học (CBD) trên cơ sở thừa nhận bản chất đặc biệt của TNDTTVLN là tất cả các quốc gia ngày nay phụ thuộc lẫn nhau về TNDTTVLN. Có nghĩa là tất cả các quốc gia đều dựa vào cây trồng có nguồn gốc từ nơi nào đó cho lương thực và nền nông nghiệp của mình. Thành tựu chính của Hiệp ước là đề xuất được hệ thống tiếp cận và chia sẻ lợi ích đa phương, trong đó danh mục cây trồng được chọn dựa trên tầm quan trọng đối với an ninh lương thực và sự tương hỗ nhau; thoả thuận đa phương về luật đối với tiếp cận ưu tiên và chia sẻ lợi ích.
Nhận thức được tầm quan trọng của TNDTTVLN nhiều nước trên thế giới đã tập trung cho bảo tồn ex situ, cho đến những năm 90 thì bắt đầu quan tâm nhiều đến bảo tồn in situ, hiện nay xu thế là kết hợp 2 phương pháp này thành chiến lược bảo tồn tương hỗ (complement strategy).
Liên Xô cũ là nước đi tiên phong trong nhiệm vụ bảo tồn quỹ gen cây nông nghiệp: Thành lập Viện Nghiên cứu cây trồng liên bang năm 1924, đang lưu giữ 185.204 mẫu giống của 10.707 loài cây trồng.
Mỹ đã xây dựng Ngân hàng gen cây trồng đa dạng di truyền nhất thế giới, đang bảo tồn 464.234 giống của 19.007 loài thực vật.
Ấn Độ và Trung Quốc là hai nước có Ngân hàng gen cây trồng lớn nhất thế giới về số lượng giống. Trung Quốc đang bảo tồn 516.505 mẫu giống của 680 loài, Ấn Độ có 412.731 mẫu giống của 1807 loài. Vương quốc Anh hiện cũng có ngân hàng gen lớn về số lượng mẫu giống với 489.802 mẫu của 4368 loài.
Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan mới tiến hành nhiệm vụ bảo tồn quỹ gen cây nông nghiệp từ đầu những năm 1980, nhưng hiện là những nước và lãnh thổ có đầu tư lớn và có trình độ công nghệ tiên tiến trong bảo tồn quỹ gen. Hiện nay, 135 nước đã có Ngân hàng gen cây trồng Quốc gia.
Ngân hàng gen cây trồng quốc tế đầu tiên do Nhóm Tư vấn về Nghiên cứu nông nghiệp quốc tế (CGIAR) của Liên hợp quốc quản lý là Ngân hàng gen lúa quốc tế của Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) tại Philippines, thành lập năm 1964. Sau Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ nhất về môi trường họp năm 1972, nhiều ngân hàng gen cây trồng của các Viện nghiên cứu nông nghiệp Quốc tế được thành lập. Đó là Ngân hàng gen Ngô và Lúa mỳ tại Trung tâm nghiên cứu quốc tế về ngô và lúa mỳ (CIMMYT), Mexico; Ngân hàng gen Sắn tại Trung tâm nông nghiệp nhiệt đới (CIAT), Colombia; Ngân hàng gen Khoai tây và Khoai lang tại trung tâm khoai tây Quốc tế (CIP), Peru; Ngân hàng gen Lạc, Kê và Cao lương tại Viện quốc tế về cây màu nhiệt đới (ICRISAT), Ấn Độ; Ngân hàng gen củ mỡ tại Viện quốc tế về nông nghiệp nhiệt đới (IITA), Nigeria v.v... Cho đến nay trên thế giới đang bảo tồn ex-situ trên 6.000.000 nguồn gen cây nông nghiệp, trong đó 87,0% ở các Ngân hàng gen cây trồng cấp quốc gia, 11,0% ở các Ngân hàng gen cấp quốc tế và 2% của các tổ chức phi chính phủ và tư nhân.
Hiện nay Chiến lược bảo tồn tài nguyên di truyền thực vật là kết hợp hài hoà hai phương pháp ex-situ và in-situ. Để khắc phục những khiếm khuyết của phương pháp bảo tồn ex-situ đối với việc duy trì quá trình tiến hoá tự nhiên của các loài và giống cây trồng được phát hiện từ thập kỷ 80 của thế kỷ trước, từ đầu thập kỷ 90 các nghiên cứu toàn cầu bắt đầu tập trung vào bảo tồn in-situ, từng bước khôi phục lại vấn đề tiến hoá tự nhiên ở cây trồng như đã có trước thời kỳ Cách mạng xanh. Bảo tồn in-situ các loài và giống cây nông nghiệp ngắn ngày tức là bảo tồn các loài và giống đó trên đồng ruộng của nông dân nên còn được gọi là bảo tồn nông trại. Các nước kinh tế phát triển đã hình thành đầy đủ cơ sở vật chất của bảo tồn ex-situ nên đang quan tâm nhiều đến bảo tồn in-situ. Ngược lại, các nước đang phát triển chưa tạo lập được ngân hàng gen thích hợp để giữ cho không mất nguồn gen của mình nên phải ưu tiên đến bảo tồn ex-situ.
Cũng như nhiều nước đang phát triển khác, nước ta cần ưu tiên đầu tư cho bảo tồn ex-situ để lưu giữ an toàn và ngăn chặn mất mát nguồn gen đang diễn ra rất nhanh, đồng thời xúc tiến bảo tồn in-situ để hỗ trợ cho bảo tồn ex-situ trong việc duy trì quá trình tiến hóa tự nhiên của cây nông nghiệp.
Có hai tổ chức chuyên môn quốc tế về bảo tồn quỹ gen cây nông nghiệp là Viện Tài nguyên di truyền thực vật quốc tế (IPGRI), thành lập năm 1972 do CGIAR quản lý có chức năng tư vấn kỹ thuật cho các nước, chủ yếu là các nước đang phát triển; Hai là Uỷ hội Tài nguyên di truyền thực vật phục vụ mục tiêu lương nông của FAO thành lập năm 1982, làm diễn đàn chung cho các nước đàm phán tất cả các vấn đề liên quan tới đa dạng sinh học nông nghiệp, TNDTTVLN và các công nghệ sinh học liên quan. Ngoài ra còn có Tổ chức sở hữu trí tuệ quốc tế (WIPO), là tổ chức liên chính phủ được thành lập năm 1967 nhằm xúc tiến sở hữu trí tuệ toàn cầu. Tháng 3 năm 1998, Ban điều hành của WIPO đã phê chuẩn một chương trình về các vấn đề sở hữu quốc tế toàn cầu bao gồm đa dạng sinh học, quyền con người và sở hữu bản địa được thực hiện thông qua các hoạt động nghiên cứu, xuất bản và tư vấn. WIPO cũng có Uỷ ban liên chính phủ về kiến thức truyền thống, tài nguyên di truyền và văn hoá dân gian.
3. Đa dạng tài nguyên di truyền thực vật lương nông ở Việt Nam
Đông Nam Á là một trong ba khu vực phong phú nhất thế giới về tài nguyên di truyền thực vật. Ngoài những nét chung của khu vực, do đặc điểm về các điều kiện tự nhiên, lịch sử và văn hoá, tài nguyên di truyền thực vật của Việt Nam có sự phong phú riêng so với các nước Đông Nam Á khác là ngoài các loài cây nhiệt đới còn bao gồm nhiều loài cây cận nhiệt đới và ôn đới (Nguyễn Đăng Khôi, 1995).
Diện tích lãnh thổ không lớn nhưng Việt Nam là một trong 15 quốc gia đa dạng và giàu có nhất thế giới về tài nguyên di truyền thực vật, với dự tính có thể có 20.000-30.000 loài thực vật chiếm 6,5% số loài có trên thế giới. Nhóm sinh vật vi tảo ở vùng nước ngọt được xác định là 1.438 loài, chiếm 9,6% so với thế giới (số loài có trên thế giới là 15.000), các loài thực vật bậc cao có 11.373 loài chiếm 5% số loài của thế giới (số loài trên thế giới 220.000 loài) và 826 loài nấm (Đánh giá thực hiện Công ước đa dạng sinh học ở Việt Nam giai đoạn 1995-2005). Theo số liệu hiện nay, hệ thực vật Việt Nam có trên 14.000 loài thực vật bậc cao. Nếu so sánh với Bắc Mỹ bao gồm Hoa Kỳ và Canada diện tích gần 20 triệu km2, cả châu Úc diện tích 7 triệu km2 cũng chỉ có tương ứng là 12.000 và 8.000 loài. Điều quan trọng khác là tỷ lệ các loài cây bản địa của Việt Nam cao, đến 40%, là tỷ lệ mà ít nước có. Như đối với cây lúa, cây trồng truyền thống của Việt Nam, Nguyễn Hữu Nghĩa và Lê Vinh Thảo (2007) đã mô tả các loại hình phong phú và chất lượng thơm ngon đặc biệt cũng như có chứa nhiều chất khoáng quan trọng đối với cơ thể con người và đã dẫn các số liệu cho thấy trong tổng số 464 giống lúa đại diện ở miền Bắc Việt Nam đưa vào phân loại dựa trên mẫu Isozyme có 147 giống đặc sản chiếm 36,68%.
Nhiều nguồn gen thực vật quý của Việt Nam đã góp phần tạo nên thắng lợi của Cách mạng xanh và sẽ đóng góp lớn cho thành tựu nông nghiệp của cả nhân loại trong tương lai. Nguồn gen kháng bệnh Đạo ôn lúa của nhóm giống lúa chiêm Tẻ tép là một trong những nguồn gen kháng Đạo ôn chủ lực trên thế giới, có mặt trong các giống lúa kháng sâu bệnh tổng hợp nổi tiếng như IR36, IR64 ... Nguồn gen của loài lúa hoang dại Oryza rufupogon thu thập tại Điện Biên Phủ và Đồng Tháp Mười được Viện Nghiên cứu lúa quốc tế đánh giá là kháng bệnh Vàng lụi và chịu chua phèn nhất thế giới. Cả hành tinh có ba nhóm giống lúa thơm là Basmati ở Ấn Độ, Pakistan; Khaodak Mali ở vùng trung và hạ lưu sông Cửu Long và Tám thơm ở đồng bằng sông Hồng, tức là Việt Nam có hai nhóm lúa thơm. Đáng chú ý lúa Tám thơm là lúa Japonica. Đây là vấn đề có ý nghĩa khoa học lớn, mở ra hướng lai tạo các giống lúa thơm ở vùng ôn đới là nơi chỉ có lúa Japonica nhưng lại không có nguồn gen lúa thơm. Nhiều giống của nhiều loài cây thức ăn gia súc trước đây là cây hoang dại được người Pháp di thực từ Việt Nam sang các nước thuộc địa khác, sau đó được các cơ quan nghiên cứu hải ngoại của Pháp và một số cơ quan nghiên cứu nông nghiệp quốc tế phục tráng thành những giống cây thức ăn gia súc quan trọng đang phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Nguồn gen dưa chuột của Việt Nam tham gia vào việc tạo ra các giống dưa chuột chống chịu với điều kiện bất thuận ở Liên Xô cũ, góp phần đáng kể vào việc mở rộng diện tích trồng dưa chuột ở Liên Xô trước đây và các nước SNG ngày nay.
Số liệu điều tra ban đầu đã cho thấy Việt Nam có sự phong phú và đa dạng cao về TNDTTVLN, phân bố ở các hệ sinh thái, nhất là tại các vùng rừng núi trên khắp đất nước. Việt Nam được biết đến như là một trung tâm phát sinh nhiều loài cây trồng như lúa gạo, khoai môn sọ, chuối, mít, xoài, dừa, chè, hành ta và các giống cây ăn quả có múi. Con số đáng kể các loài mới được phát hiện gần đây đã một lần nữa khẳng định sự phong phú và đa dạng nguồn tài nguyên di truyền thực vật của đất nước.
Theo số liệu điều tra ban đầu, nguồn gen giống cây trồng hiện đang sử dụng trong sản xuất nông nghiệp từ 16 nhóm các loại cây trồng khác nhau: cây lương thực chính, cây lương thực bổ sung, cây ăn quả, cây rau, cây gia vị, cây lấy sợi, cây làm nước uống, cây thức ăn gia súc, cây bóng mát, cây lấy gỗ với tổng số trên 800 loài cây trồng với hàng ngàn giống khác nhau phổ biến tại các hệ sinh thái nông nghiệp khác nhau trên cả nước, trong đó phổ biến nhất bao gồm 41 loài cây tinh bột làm lương thực, 95 loài cây thực phẩm không tinh bột, 105 loài cây ăn quả, 55 loài rau, 44 loài cây lấy dầu, 16 loài lấy sợi, 12 loài làm đồ uống, 181 loài làm thuốc, 39 loài làm gia vị, 29 loài làm cây che phủ chống xói mòn, 50 loài cây cảnh, 49 loài cây lấy gỗ, và 5 loài cây bóng mát. Số lượng các loài thực vật có quan hệ họ hàng với cây trồng là khoảng trên 1.300 loài, trong đó có nhiều loài đã và đang bị lãng quên. Ngoài ra còn rất nhiều loài thực vật có giá trị nông nghiệp chưa được khai thác sử dụng nhiều. Kết quả điều tra cũng cho thấy số loài cây bị đe doạ rất nhiều và ngày càng xuất hiện nhiều trong Sách đỏ Việt Nam (IUCN, 2006). Hiện nay tại Ngân hàng gen cây trồng Quốc gia đang bảo tồn hơn 12.300 giống của 115 loài cây trồng. Đó là tài sản quí, phần lớn không còn trong sản xuất và trong tự nhiên nữa. Một bộ phận quan trọng của của số giống này là nguồn gen bản địa với nhiều đặc tính quí mà duy nhất chỉ có ở Việt Nam.
4. Sự xói mòn tài nguyên di truyền thực vật lương nông ở Việt Nam
Do ảnh hưởng của chiến tranh, thiên tai như lũ lụt, hạn hán và do khai thác bừa bãi và một phần bị lạm dụng bởi các tổ chức và cá nhân nước ngoài, hàng năm có khoảng 300-400 giống tại các địa phương có nguy cơ cao bị xói mòn nguồn gen, trong đó có nhiều giống địa phương quí hiếm (ví dụ: Năm 1996 số loài bị đe doạ mất là 356, năm 2003 đã là 450). Nhiều giống lúa quí của Việt Nam có giá trị rất cao trong việc lai tạo giống lúa thơm thương mại hiện nay không thể tìm thấy tại Việt Nam mà chúng đã thuộc quyền sở hữu của một số quốc gia khác. Một ví dụ về sự mất mát nguồn gen theo Averyanov et al. (2003), Trần Thị Hoà (2007) về khai thác kiệt loài lan quí Paphiopedilum hangianum thuộc chi lan hài, đến năm 2001, sau 2 năm thu mua bùng nổ tất cả các quần thể được biết hầu như bị tuyệt diệt ngoài thiên nhiên.
Từ những thông tin phân tích cho thấy TNDTTVLN ở Việt Nam đã và đang bị suy giảm nghiêm trọng do tác động của các yếu tố kinh tế, yếu tố văn hoá, xã hội và yếu tố sinh học. Các yếu tố chính bao gồm:
- Áp lực tăng dân số, và nghèo đói,
- Tàn phá hệ sinh thái bao gồm nạn phá rừng và khai thác rừng không hợp lý dẫn đến thoái hoá đất, mất hệ thống canh tác truyền thống dẫn đến mất dần cây trồng bản địa.
- Sử dụng giống mới năng suất cao làm thay đổi cơ cấu giống cây trồng, Du nhập các loài ngoại lai.
- Thiên tai, sâu bệnh và các điều kiện ngoại cảnh bất lợi;
- Môi trường thay đổi dưới áp lực của công nghiệp hoá, đô thị hoá, tăng mạnh sử dụng phân hoá học và thuốc trừ sâu.
- Kinh tế thị trường
- Nhận thức về bảo tồn của các bên liên quan yếu; Quản lý lỏng lẻo, không chặt chẽ...
Tất cả những vấn đề nêu trên cho thấy biện pháp tổ chức và quản lý hợp lý nhiệm vụ bảo tồn để phục vụ cho khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên cây nông nghiệp là nhiệm vụ khoa học cấp bách của nước ta hiện nay.
5. Những nỗ lực bảo tồn tài nguyên di truyền thực vật lương nông ở Việt Nam
Nhiệm vụ bảo tồn tài nguyên di truyền cây nông nghiệp ở nước ta được tiến hành từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Lúc bấy giờ Đông Dương là xứ xuất khẩu gạo quan trọng. Để xúc tiến khai thác thuộc địa và xuất khẩu lúa gạo, người Pháp đã tiến hành thu thập và lưu giữ nguồn gen lúa để chọn lọc ra các giống có năng suất và phẩm chất thích hợp. Cũng trong thời gian này người Pháp nhập nội và thiết lập các đồn điền cao su và cà phê, từ đó kéo theo việc nghiên cứu đánh giá quỹ gen hai loài cây này.
Sau Hiệp định Geneve, bảo tồn quỹ gen cây nông nghiệp được tiến hành ở cả hai miền Nam, Bắc. Ở miền Bắc, từ năm 1952 (Viện Khảo cứu trồng trọt), năm 1955 (Học viện nông lâm), và bắt đầu từ năm 1956 (Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam - VASI) đã chú trọng thu thập, đánh giá một số tập đoàn giống cây trồng, trong số đó nhiều giống được lưu giữ trong ngân hàng gen cho tới ngày nay. Các tập đoàn quỹ gen cây ăn quả và cây công nghiệp đầu tiên được tạo lập tại Phú Hộ, tỉnh Phú Thọ và Phủ Quỳ, tỉnh Nghệ An. Công việc bị chiến tranh và những khó khăn kinh tế thời hậu chiến kéo dài làm gián đoạn. Đến năm 1987, sau khi Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, nay là Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Quy chế lâm thời về bảo tồn nguồn gen, nhiệm vụ từng bước được tiến hành chính quy. Từ năm 1985-1992 Với sự giúp đỡ của Bộ Nông nghiệp và Viện Hàn lâm nông nghiệp Liên Bang Nga đã tiến hành thu thập và lưu giữ hàng vạn mẫu giống thuộc 72 loài cây trồng khác nhau (Trần Đình Long, 2007). Năm 1989 Ngân hàng gen cây trồng Quốc gia được hình thành, có phương tiện để bảo quản giống trong kho lạnh, duy trì đồng ruộng và bảo tồn in vitro.
Ngân hàng gen cây trồng Quốc gia được chia thành 2 nhóm chịu sự quản lý của 2 bộ: Cây lâm nghiệp, cây trồng, vật nuôi, vi sinh vật và thiên địch, nguồn gen thủy sản do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý; và nguồn gen cây dược liệu do Bộ Y tế quản lý. Mỗi nhóm có một hệ thống các ngân hàng gen trải dài trên đất nước để bảo tồn các nguồn gen. Hàng năm nhà nước tăng ngân cho các hoạt động này qua các năm.
Năm 1996, thành lập Trung tâm Tài nguyên di truyền thực vật thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS), là đầu mối của Hệ thống bảo tồn quỹ gen cây nông nghiệp của cả nước.
Một vấn đề đang mang tính thời sự là nguồn gốc xuất xứ và thương hiệu nông sản hàng hoá. Nguồn gốc xuất xứ nông sản gắn liền với hàm lượng nguồn gen bản địa có trong giống cây trồng sản xuất ra nông sản đó. Hàm lượng cao nhất là giống địa phương sử dụng trong sản xuất, tiếp đến là sự tham gia của nguồn gen bản địa ở các mức độ khác nhau vào việc tạo ra giống mới. Như vậy muốn khẳng định được nguồn gốc xuất xứ nông sản, chúng ta phải khẳng định chủ quyền và bảo tồn có hiệu quả tài nguyên di truyền thực vật của mình.
Dưới đây là một số kết quả đáng khích lệ về bảo tồn và sử dụng TNDTTVLN trong thời gian qua.
Bảo tồn và phát triển ngoại vi tài nguyên di truyền lương nông nghiệp
Trong hơn 20 năm qua, kể từ khi Kế hoạch hành động đa dạng sinh học quốc gia được thông qua (1995) bảo tồn ex-situ và phát triển TNDTTVLN đã được chú ý đầu tư đáng kể.
Duy trì bền vững các tập đoàn ngoại vi (ex situ) hiện có: Có 30 đơn vị tham gia triển khai nội dung này (Trần Đình Long, 2007)
Tổng số khoảng 40.000 nguồn gen cây trồng, thuộc khoảng 200 loài đã được thu thập và bảo tồn ngoại vi tại các vườn tập đoàn, tập đoàn trong ống nghiệm, hoặc tập đoàn hạt, bao gồm cả những vật liệu di truyền có giá trị kinh tế cao. Nhiều mẫu giống lưu giữ đã được sử dụng hiệu quả trong công tác cải tiến giống cây trồng. Đặc biệt là tại Ngân hàng gen cây trồng quốc gia, (VAAS), hơn 12.300 nguồn gen của 115 loài, bao gồm cả các giống địa phương, giống truyền thống và loài họ hàng hoang dại đang được lưu giữ. Các tập đoàn đồng ruộng lưu giữ tại Trung tâm Tài nguyên Thực vật và tại các cơ quan khác trong hệ thống TNDTTV bao gồm khoai môn sọ, chuối, khoai lang, từ vạc, cây có múi, xoài, nhãn, ...v.v cũng là những vật liệu và là nguồn gen có giá trị lớn đối với công tác chọn tạo giống. Hàng năm có khoảng 1.000 nguồn gen từ các tập đoàn ngoại vi được sử dụng vào các mục đích nghiên cứu chọn tạo giống và công nghệ sinh học.
Phục hồi các mẫu giống bị đe doạ trong các tập đoàn: có 41 tập đoàn ngoại vi bị đe doạ đã được phục hồi bằng các phương pháp nhân mới, cứu phôi, thu thập lại tại 19 cơ quan nghiên cứu. Kết quả đạt được